Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị là cú hích quan trọng cho ngành TDTT phát triển vững mạnh

Nghị quyết số 68 - NQ/TW, ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân (gọi tắt là Nghị quyết số 68 - NQ/TW) là cú hích quan trọng cho ngành TDTT phát triển. Kinh tế tư nhân đầu tư mạnh sẽ thúc đẩy kinh tế thể thao Việt Nam phát triển, mặc dù kinh tế thể thao đang đứng trước những cơ hội và thách thức phát triển mới. Kinh tế thể thao cần nắm bắt cơ hội để phát triển bứt phá, quyết liệt, tự tin sẽ vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng phát triển, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu to lớn, đưa nền thể thao nước nhà phát triển vượt bậc hơn nữa.

Nghị quyết số 68 - NQ/TW khẳng định 5 quan điểm chỉ đạo, trong đó, quan điểm thứ nhất là: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững; cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn lên phát triển thịnh vượng.” Nghị quyết số 68 - NQ/TW đề ra mục tiêu đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp triển khai thực hiện trong thực tiễn. Nghị quyết số 68 - NQ/TW mở ra thời kỳ phát triển tăng tốc, bứt phá của kinh tế tư nhân trên mọi ngành, mọi lĩnh vực, trong đó, có ngành TDTT.

Chạy bộ là một trong những môn thể thao đang thu hút rất đông người dân tham gia, góp phần vào sự phát triển du lịch, kinh tế

Trong bài viết: “Phát triển kinh tế tư nhân - đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng”, ngày 17/3/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới, kinh tế tư nhân chỉ giữ vai trò thứ yếu, nền kinh tế chủ yếu dựa vào khu vực nhà nước và vốn đầu tư nước ngoài (FDI), thì trong hai thập niên trở lại đây, nhất là khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW năm 2011 và Trung ương ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW năm 2017 về phát triển kinh tế tư nhân, khu vực kinh tế này đã trỗi dậy mạnh mẽ, trở thành một trong những trụ cột quan trọng hàng đầu của nền kinh tế và ngày càng thể hiện là động lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia. Với gần một triệu doanh nghiệp, khoảng 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 51% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước, tạo ra hơn 40 triệu việc làm, chiếm hơn 82% tổng số lao động trong nền kinh tế, đóng góp gần 60% vốn đầu tư toàn xã hội.

  … Kinh tế tư nhân phải là lực lượng tiên phong trong kỷ nguyên mới, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia, có trách nhiệm xã hội, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, tham gia xây dựng xã hội văn minh, hiện đại và góp phần xây dựng một Việt Nam năng động và hội nhập quốc tế. Kinh tế tư nhân cần phấn đấu trở thành lực lượng chủ lực, đi đầu trong ứng dụng công nghệ và đổi mới, sáng tạo, để đạt mục tiêu đóng góp khoảng 70% GDP vào năm 2030; ngày càng nhiều doanh nghiệp tư nhân có năng lực cạnh tranh toàn cầu, làm chủ công nghệ và hội nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng quốc tế; cùng cả nước xây dựng nên một Việt Nam năng động, độc lập, tự chủ, tự cường và phát triển thịnh vượng.

 …chúng ta cần phải quán triệt lại định hướng quan điểm và nhận thức trong cả hệ thống chính trị về vai trò của kinh tế tư nhân như là động lực tăng trưởng quan trọng hàng đầu của đất nước.”

Ngành TDTT, các doanh nhân, doanh nghiệp tư nhân phải chuyển mạnh tư duy sang tư duy kinh tế thị trường: phải coi kinh tế thể thao là một ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân, là “vùng đất hoang nhiều tiềm năng” để đầu tư phát triển, đem lại lợi nhuận cao, là ngành có giá trị kinh doanh, nhiều doanh nghiệp trong nước và quốc tế  đầu tư vào lĩnh vực này. Ngành TDTT nước ta không thể phát triển ngang tầm khu vực và thế giới, nếu chỉ dựa vào đầu tư của Nhà nước, mà rất cần sự đầu tư của kinh tế tư nhân. Kinh nghiệm của các nước có ngành thể thao mạnh là đều do các tập đoàn, tổng công ty lớn đầu tư.

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, quan tâm, định hướng sát sao của Đảng, Nhà nước, kinh tế thể thao đã có những bước phát triển và mang hiệu quả tích cực.

 Cơ chế, chính sách thông thoáng tạo thuận lợi cho kinh tế thể thao phát triển

Kinh tế thể thao được coi là một ngành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Hàng hóa của kinh tế thể thao là một loại hàng hóa đặc biệt phục vụ cho nhu cầu nâng cao sức khỏe của người dân, phục vụ cho nhu cầu tinh thần, uy tín của dân tộc trên trường quốc tế, khu vực...; có hàng hóa liên quan trực tiếp đến các hoạt động tập luyện, thi đấu TDTT, có hàng hóa gián tiếp phục vụ cho các hoạt động TDTT như sản xuất, cung cấp các dịch vụ hàng hóa, dịch vụ liên quan đến thể thao…

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích, đầu tư, tạo điều kiện cho kinh tế thể thao có những bước phát triển và mang hiệu quả đáng ghi nhận. Gần đây, Kết luận số 70-KL/TW, ngày 31/01/2024 của Bộ Chính trị về phát triển thể dục, thể thao trong giai đoạn mới nêu rõ: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp thể dục, thể thao trong giai đoạn mới. Chú trọng cơ chế, chính sách đầu tư, phát triển thể chế, cơ sở hạ tầng; thể thao chuyên nghiệp, thể thao thành tích cao, thể thao quần chúng, giáo dục thể chất và thể thao trường học; khung khổ pháp lý về kinh tế thể thao, quyền sở hữu, chuyển nhượng, khai thác bản quyền và tài trợ, thúc đẩy xã hội hóa.”; “Phát triển thị trường thể thao, thúc đẩy hợp tác công - tư, khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở thể thao, tham gia tổ chức thi đấu, đào tạo vận động viên, huấn luyện viên, trọng tài và cung cấp các dịch vụ thể dục, thể thao”. Đó là cơ sở để tiếp tục tạo cơ chế thuận lợi cho phát triển kinh tế thể thao, khi cho phép tăng cường các nguồn lực cho sự nghiệp thể dục, thể thao, cả nguồn lực của Nhà nước, cả nguồn lực của tư nhân, cả nguồn lực xã hội hóa từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Thể chế hóa chủ trưởng của Đảng, Chính phủ đã sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế, chính sách tạo ra hành lang pháp lý cũng như điều kiện thuận lợi cho hoạt động TDTT, hỗ trợ TDTT nói chung, kinh tế thể thao nói riêng phát triển, góp phần thu hút những nguồn lực trong toàn xã hội đầu tư cho TDTT. Phát triển thị trường thể thao, thúc đẩy hợp tác công - tư, khuyến khích tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế thể thao,  xây dựng cơ sở thể thao, tham gia tổ chức thi đấu, đào tạo vận động viên, huấn luyện viên, trọng tài và cung cấp các dịch vụ thể dục, thể thao, tạo điều kiện cho ba "chân trụ" gồm thể thao cho mọi người, thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp phát triển, đồng thời, thúc đẩy kinh tế thể thao phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Để kinh tế thể thao phát triển, từ việc thực hiện thật tốt chủ trương xã hội hóa, cần đi tới nhận thức và hành động thực tiễn là các tổ chức, doanh nghiệp, doanh nhân đầu tư vào kinh tế thể thao như đầu tư vào một ngành kinh tế có nhiều khả năng sinh lời, tạo dựng thương hiệu nhằm huy động các nguồn lực đầu tư phát triển lĩnh vực TDTT, thúc đẩy phát triển kinh tế thể thao, phát triển các doanh nghiệp TDTT, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tổ chức các dịch vụ TDTT, tổ chức hoạt động, sự kiện TDTT,...

Cần thay đổi tư duy: việc phát triển con người toàn diện về trí lực, thể lực,...là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, cả hệ thống chính và toàn xã hội, việc tăng cường thể lực cho người dân không phải là nhiệm vụ riêng của ngành TDTT, mà là nhiệm vụ chung của toàn xã hội và của mỗi người dân. Vì vậy, rất cần sự đầu tư, chung sức đồng lòng của Nhà nước, của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân với vị trí, vai trò là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Khi kinh tế tư nhân, các tập đoàn, tổng công ty, các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nhân đầu tư, thì chắc chắn rằng sẽ là “cú hích” cho kinh tế thể thao bứt phá, phát triển toàn diện, từ cơ sở vật chất, dụng cụ TDTT đến các dịch vụ liên quan như đào tạo, luyện tập, thi đấu,… ngang tầm khu vực và thế giới trong quá trình hội nhập quốc tế. Cần vận dụng sáng tạo các nhóm nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 68 - NQ/TW, ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân trong ngành TDTT nói chung, phát triển kinh tế thể thao nói riêng.

 1. Đổi mới tư duy, thống nhất cao về nhận thức và hành động, khơi dậy niềm tin, khát vọng dân tộc, tạo xung lực mới, khí thế mới để phát triển kinh tế tư nhân trong ngành thể dục thể thao, phát triển kinh tế thể thao

 - Nhất quán nhận thức của các cấp uỷ, chính quyền, cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao; củng cố niềm tin, khát vọng vươn lên và hành động mạnh mẽ của kinh tế tư nhân Việt Nam trong kỷ nguyên mới đưa thể thao nước nhà ngang tầm khu vực và vươn ra thế giới. Nhà nước kiến tạo, phục vụ, hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao, không can thiệp hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh trái với nguyên tắc thị trường; xây dựng mối quan hệ giữa chính quyền với doanh nghiệp cởi mở, thân thiện, đồng hành, liêm chính phục vụ, kiến tạo phát triển.

 - Đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức và hành động, khơi dậy tinh thần kinh doanh, khởi nghiệp, sự tự tin, tự cường, tự hào dân tộc của mọi người dân để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao. Các cơ quan truyền thông, báo chí cần nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền, bảo đảm khách quan, trung thực, đầy đủ, cổ vũ, lan toả những mô hình tốt, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả, khích lệ tinh thần kinh doanh trong toàn xã hội, trong đó có ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao. Nghiêm cấm các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, đưa thông tin sai lệch, không chính xác, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, doanh nhân.

 2. Đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, cơ chế, chính sách, bảo đảm và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng của kinh tế tư nhân và bảo đảm thực thi hợp đồng của kinh tế tư nhân trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

          2.1. Đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

 - Đổi mới tư duy xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật bảo đảm phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao theo cơ chế thị trường, sử dụng các công cụ thị trường để điều tiết nền kinh tế; giảm thiểu sự can thiệp và xoá bỏ các rào cản hành chính, cơ chế "xin - cho", tư duy "không quản được thì cấm". Người dân, doanh nghiệp được tự do kinh doanh trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

 - Hoàn thiện hệ thống pháp luật, xoá bỏ các rào cản tiếp cận thị trường trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao đảm bảo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, rõ ràng, nhất quán, ổn định lâu dài, dễ tuân thủ, chi phí thấp. Minh bạch hoá, số hoá, thông minh hoá, tự động hoá, áp dụng triệt để trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn trong thực hiện các quy trình, thủ tục hành chính, nhất là về gia nhập, rút lui khỏi thị trường trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao...

 - Thực hiện chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao. Chuyển việc quản lý điều kiện kinh doanh từ cấp phép, chứng nhận sang thực hiện công bố điều kiện kinh doanh và hậu kiểm... Khắc phục tình trạng thiếu nhất quán trong thực thi chính sách giữa trung ương và địa phương, giữa các bộ, ngành và giữa các địa phương với nhau trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

 - Thực hiện cơ chế thị trường, không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực vốn, đất đai, tài nguyên, tài sản, công nghệ, nhân lực, dữ liệu và các nguồn lực tài nguyên khác trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

 - Hoàn thiện khung pháp lý cho các mô hình kinh tế mới trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao, kinh doanh dựa trên công nghệ và nền tảng số...

 - Có cơ chế, chính sách đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, bảo đảm theo nguyên tắc thị trường và tuân thủ các cam kết quốc tế trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

 - Nâng cấp, đổi mới chương trình xúc tiến thương mại quốc gia; hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân xây dựng và quảng bá thương hiệu trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao...

2.2. Bảo đảm và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền tài sản, quyền cạnh tranh bình đẳng và bảo đảm thực thi hợp đồng của kinh tế tư nhân trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

  - Hoàn thiện hệ thống pháp luật thực thi hợp đồng, giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

 - Rà soát, hoàn thiện và thực thi hiệu quả quy định pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu tài sản, trong đó có quyền sở hữu trí tuệ và tài sản vô hình; giảm thiểu rủi ro pháp lý trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao. Có chính sách hỗ trợ định giá, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong nước; hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao đăng ký quyền sở hữu trí tuệ ở nước ngoài và các tổ chức quốc tế, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế.

 2.3. Tuân thủ nguyên tắc phân định rõ trách nhiệm hình sự với hành chính, dân sự; giữa pháp nhân và cá nhân trong xử lý vi phạm trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

Sửa đổi các quy định về pháp luật hình sự, dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự để bảo đảm nguyên tắc khi xử lý các sai phạm, vụ việc về dân sự kinh tế, ưu tiên áp dụng các biện pháp về dân sự, kinh tế, hành chính trước, cho phép các doanh nghiệp, doanh nhân được chủ động khắc phục sai phạm, thiệt hại trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

 3. Tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao tiếp cận các nguồn lực về đất đai, vốn, nhân lực chất lượng cao.

3.1. Tăng cường cơ hội tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh cho kinh tế tư nhân trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

Đẩy mạnh chuyển đổi số, tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh. Có cơ chế, chính sách phù hợp kiểm soát biến động giá đất, đặc biệt là giá đất sản xuất kinh doanh, phi nông nghiệp, hạn chế tối đa ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư, sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.

 3.2. Đẩy mạnh và đa dạng hoá nguồn vốn cho kinh tế tư nhân trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

- Rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng, có chính sách ưu tiên một phần nguồn tín dụng thương mại cho kinh tế tư nhân trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

- Rà soát khuôn khổ pháp lý, hoàn thiện mô hình các quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao;

- Hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao;

- Rà soát, hoàn thiện chính sách thuế, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư góp vốn của các quỹ đầu tư vào doanh nghiệp trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao,...

 3.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho kinh tế tư nhân trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

Thực hiện hiệu quả chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho kinh tế tư nhân trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao; khuyến khích các địa phương sử dụng các nguồn lực hợp pháp của mình để hỗ trợ chủ động các chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực phù hợp định hướng phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao của địa phương.

4. Thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh doanh hiệu quả, bền vững trong kinh tế tư nhân trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

 - Triển khai quyết liệt Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia khu vực kinh tế tư nhân trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

 - Doanh nghiệp được trích tối đa 20% thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp để lập quỹ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và nghiên cứu phát triển trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao. Doanh nghiệp được sử dụng quỹ để tự triển khai hoặc đặt hàng nghiên cứu phát triển bên ngoài theo cơ chế khoán sản phẩm.

- Có chính sách miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

5. Tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

- Xây dựng các chuỗi liên kết doanh nghiệp theo cụm ngành, chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

- Khuyến khích các tổ chức tài chính, tín dụng tài trợ vốn cho các doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

 - Khẩn trương triển khai các chính sách hỗ trợ về nghiên cứu phát triển, đào tạo, tư vấn, xúc tiến thương mại, chuyển giao công nghệ,... trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

6. Hình thành và phát triển nhanh các doanh nghiệp lớn và vừa, các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

- Mở rộng sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân vào các dự án quan trọng quốc gia trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao

- Đa dạng hoá, nâng cao hiệu quả các hình thức hợp tác giữa Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân thông qua các mô hình hợp tác công tư (PPP), lãnh đạo công - quản trị tư, đầu tư công - quản lý tư, đầu tư tư - sử dụng công trong phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao.

Trước mắt, Nhà nước cần đầu tư và có cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích mọi nguồn lực của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư vào phát triển ngành TDTT, phát triển kinh tế thể thao:

- Tuyên truyền sâu rộng về lợi ích của TDTT nâng cao sức khỏe người dân, các chương trình thể thao vì cộng đồng hay các chương trình nâng tầm hiểu biết cho cộng đồng về lối sống lành mạnh.

- Xây dựng/bảo trì các công trình/địa điểm thể thao, tìm kiếm/huấn luyện/đào tạo/bồi dưỡng nhân tài thể thao, cổ vũ/thúc đẩy phát triển phong trào rèn luyện thể thao, cũng như cung cấp tài chính cho các tổ chức làm thể thao, các giải thi đấu thể thao hay những đợt vận động đăng cai tổ chức các giải thể thao lớn.

 - Xã hội hóa mạnh mẽ, vận động sự ủng hộ, giúp đỡ, tài trợ của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân cho các giải còn gặp khó khăn về tài chính như Paralympic...

Ngành TDTT nói chung, kinh tế thể thao nói riêng muốn phát triển, thì sau khi Đảng có chủ trương, đường lối đúng đắn, Nhà nước cần thể chế hóa thành pháp luật, cơ chế, chính sách phù hợp; sự vào cuộc của toàn xã hội, đặc biệt là kinh tế tư nhân.  Kinh tế là cơ sở để phát triển TDTT, sự phát triển của TDTT phụ thuộc vào phát triển kinh tế. Do vậy, Nghị quyết số 68 - NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân sẽ là “cú hích lớn” cho sự phát triển ngành TDTT nói chung, phát triển kinh tế thể thao nói riêng.

PGS.TS Vũ Văn Phúc

                                           Nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản,

Nguyên Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương

Ảnh trong bài
  • Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị là cú hích quan trọng cho ngành TDTT phát triển vững mạnh