
PGS.TS Nguyễn Cẩm Ninh tham luận tại Hội thảo về đào tạo trong lĩnh vực TDTT (Ảnh: TA)
Đại học TDTT Bắc Ninh là một trong những đơn vị thực hiện chức năng đào tạo cán bộ TDTT cho cả nước. Với bề dày lịch sử hơn 60 năm thực hiện công tác đào tạo cán bộ TDTT, trường Đại học TDTT Bắc Ninh đã cung cấp cho toàn quốc hàng ngàn cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, giáo viên, huấn luyện viên TDTT. Thực hiện chương trình cải cách giáo dục đại học của Chính phủ, đồng thời để tiến kịp trình độ đào tạo cán bộ TDTT của các trường Đại học TDTT trong khu vực và trên thế giới, trường Đại học TDTT Bắc Ninh chú trọng tiến hành cải cách quy mô và chương trình đào tạo, nhằm làm cho nội dung đào tạo mới mang tính khoa học và hiện đại hơn.
Trong những năm gần đây do sự chỉ đạo và quan tâm của Đảng và Nhà nước, TDTT Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ về quy mô và chất lượng. Các loại hình tổ chức hoạt động TDTT ngày càng đa dạng và phong phú, hiệu quả hoạt động ngày càng cao, do vậy nhu cầu về cán bộ tổ chức - quản lý trong mọi lĩnh vực hoạt động TDTT càng lớn. Chính vì vậy, trong thời gian qua công tác đào tạo Cử nhân ngành Quản lý TDTT của trường Đại học TDTT Bắc Ninh đã bước đầu đáp ứng được nhu cầu xã hội về loại hình cán bộ này.
Thực hiện sự đa dạng hoá ngành nghề đào tạo, từ năm 2003 trường Đại học TDTT Bắc Ninh đã triển khai xây dựng chương trình, kế hoạch để mở các ngành đào tạo mới đáp ứng yêu cầu thực tiễn xã hội theo hướng chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ TDTT. Xuất phát từ thực tiễn phát triển của ngành TDTT và Nhà trường, Bộ Giáo dục và đào tạo đã có quyết định công nhận mã ngành cho ngành Quản lý TDTT và trường Đại học TDTT Bắc Ninh chính thức đào tạo ngành Quản lý TDTT từ năm 2007 cho đến nay.
Kế hoạch đào tạo Cử nhân ngành Quản lý TDTT của trường Đại học TDTT Bắc Ninh được tiến hành trong thời gian 4 năm, gồm 8 học kỳ. Từ năm 2007 đến 2015, khối lượng kiến thức toàn khoá gồm 190 đơn vị học trình bắt buộc, chưa kể nội dung về Giáo dục quốc phòng (165 tiết). Với quỹ thời gian 8 học kỳ (4 năm học), sinh viên ngành Quản lý thể dục thể thao phải hoàn thành khối lượng 2850 giờ của 54 môn học, trong đó khối kiến thức ngành bao gồm 810 giờ của 16 môn học chuyên ngành.
Năm 2015, trường Đại học TDTT Bắc Ninh thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ, do vậy kế hoạch đào tạo Cử nhân ngành Quản lý TDTT có sự điêu chỉnh: Khối lượng kiến thức toàn khoá là 125 tín chỉ (2505 tiết), chưa tính 8 tín chỉ (165 tiết) Giáo dục quốc phòng và An ninh, trong đó kiến thức chuyên ngành gồm 38 tín chỉ (630 tiết).
Như vậy, kế hoạch đào tạo Cử nhân Quản lý TDTT của trường Đại học TDTT Bắc Ninh luôn đảm bảo yêu cầu và đúng qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong quá trình triển khai nhà trường thường xuyên rà soát, điều chỉnh, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục theo hướng hiện đại hoá nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho đất nước.
Ngành Quản lý TDTT chính thức tuyển sinh năm học 2007 - 2008. Năm đầu tiên tuyển sinh nên sinh viên học ngành Quản lý chưa có chỉ tiêu đầu vào, sinh viên vào học ngành này chủ yếu là những sinh viên từ các môn chuyên sâu thực hành khác đăng ký chuyển ngành khi được giới thiệu ngành mới. Đại đa số các sinh viên ngành Quản lý TDTT đều nhận thấy, Quản lý TDTT là một ngành mới cơ hội việc làm tốt hơn các ngành khác trong trường, một số sinh viên khác do gia đình định hướng, số còn lại do ngại học chuyên sâu thực hành nên chọn học lý thuyết.
Trong kỳ thi tuyển sinh năm 2011, nhà trường chính thức có chỉ tiêu riêng cho ngành quản lý TDTT, song hình thức tuyển sinh vẫn chưa có nhiều thay đổi. Thí sinh đăng ký thi tuyển ngành quản lý, bên cạnh việc thi các môn văn hoá và năng khiếu chung như các thí sinh khác, được phép lựa chọn 1 trong 14 môn thực hành để thi năng khiếu. Những năm tiếp theo ngành Quản lý TDTT vẫn áp dụng phương thức tuyển sinh trên cho tới khi phương thức khi phương thức xét tuyển vào đại học được áp dụng phổ biến.
Hiện nay tuyển sinh ngành Quản lý TDTT Bắc Ninh theo 2 phương thức: (1) Xét kết quả học THPT kết hợp thi năng khiếu; (2) Xét kết quả thi tốt nghiệp THPT kết hợp thi năng khiếu. Bên cạnh 2 phương thức trên còn áp dụng chính sách ưu tiên và tuyển thẳng đối với VĐV.
Căn cứ vào chi tiêu và kết quả thi của các thí sinh nhà trường công bố điểm chuẩn. Kỳ thi tuyển sinh năm 2011 đến 2021 số lượng thí sinh trúng tuyển không đồng đều Từ năm 2011 đến 2014 ngành luôn tuyển đủ chỉ tiêu đào tạo, song từ 2015 theo tinh hình chung của xã hội và nhà trường, số lượng thí sinh giảm sút dẫn tới nguồn tuyển cũng bị hạn chế. Tuy nhiên, hàng năm vẫn đảm bảo có lớp đào tạo ngành Quản lý TDTT cho nguồn nhân lực về TDTT cho đất nước và 2 nước bạn Lào và Campuchia.
Để đánh giá thực trạng nguồn nhân lực Cử nhân TDTT ngành Quản lý TDTT Trường Đại học TDTT Bắc Ninh, năm 2021 chúng tôi đã có một nghiên cứu về vấn đề này. Nghiên cứu tiến hành khảo sát 135 cựu sinh viên ngành Quản lý về tình hình việc làm và mức độ đáp ứng công việc sau khi tốt nghiệp thông qua phỏng vấn bằng phiếu hỏi. Kết quả khảo sát cho thấy đa số các sinh viên chuyên ngành Quản lý sau khi ra trường đều có việc làm (97,04%), số chưa có việc làm là do chưa tìm được việc ưng ý, muốn đi học tiếp hoặc vì một lý do khác, không có ai là xin việc mà không được. Cử nhân Quản lý TDTT sau khi ra trường chủ yếu làm việc ở các đơn vị sự nghiệp và các doanh nghiệp (28,89 - 41,48%), số làm việc ở cơ quan quản lý nhà nước chiếm tỉ lệ thấp (8,15%). Số cử nhân làm việc đúng ngành đào tạo cũng chiếm tỉ lệ chưa cao (37,04%). Về kiến thức đào tạo ở trường họ cho rằng là hữu ích và rất hữu ích (chiếm tới 76,29%). Khi đánh giá về công việc đang làm số đông cảm thấy hài lòng và tương đối hài lòng (30,37- 51,11%), thu nhập từ công việc chính của họ chủ yếu từ 10 đến 15 triệu đồng/ tháng.
Đề đánh giá mức độ đáp ứng nhu cầu xã hội của nguồn nhân lực Cử nhân TDTT ngành Quản lý TDTT Trường Đại học TDTT Bắc Ninh chúng tôi đã khảo sát 37 cơ quan, doanh nghiệp sử dụng Cử nhân Quản lý TDTT. Kết quả cho thấy các đơn vị doanh nghiệp sử dụng cử nhân ngành Quản lý TDTT đều đánh giá họ đáp ứng được yêu cầu thực tiễn về kiến thức chung và chuyên môn từ mức trung bình trở lên. Các kỹ năng chung chủ yếu được đánh giá mức độ áp đáp ứng từ trung bình trở lên, tuy nhiên chỉ có 3 kỹ năng: giao tiếp, tin học và khả năng thích ghi với môi trường làm việc là không có ý kiến đánh giá ở mức yếu, kém.
Kỹ năng chuyên môn cũng có ý kiến đánh giá cử nhân Quản lý TDTT còn yếu về Năng lực xây dựng các loại kế hoạch phát triển TDTT của đơn vị: Năng lực quản lý, tổ chức thực hiện kế hoạch TDTT và Năng lực quản lý công trình TDTT trong thực tiễn công tác. Đặc biệt, năng lực giảng dạy quản lý TDTT theo chuyên đề là hạn chế hơn cả (mức độ yếu kém alf 13,51 – 5,41%). Thái độ nghề nghiệp của các cử nhân Quản lý TDTT được đánh giá cao trong thực tiễn, duy chỉ có tiêu chí đóng góp ý kiến xây dựng, phát triển đơn vị là còn hạn chế, ý kiến đánh giá yếu (2.70%) kém (5,41%) ở tiêu chí này.
Chương trình đào tạo là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn tới sản phẩm đầu ra của ngành đào tạo. Để đánh giá thực trạng chương trình đào tạo cử nhân Quản lý TDTT nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 135 cựu sinh viên ngành quản lý bằng phiếu hỏi. Kết quả thu về cho thấy, người học đánh giá cao mục tiêu đào tạo của ngành học rõ ràng và học viên dễ dàng tiếp cận thông tin về chương trình đào tạo và đề cương các môn học trong chương trình đào tạo.
Đa số người học cho rằng: Các học phần đào tạo kỹ năng mềm như giao tiếp, làm việc nhóm, nghiên cứu khoa học trong chương trình đào tạo là hữu ích, song thực tế trong quá trình tổ chức đào tạo cử nhân Quản lý TDTT các học phần này chưa được chú trọng nhiều.
Trên 50% người học được hỏi còn phân vân và không đồng ý với: Tỉ lệ giữa các học phần lý thuyết và thực hành là hợp lý; Thời lượng các học phần thực hành đủ để hình thành các kỹ năng nghề nghiệp chuyên môn; Nội dung chương trình đào tạo có tính cập nhật. Đặc biệt là 70,37% phân vân và không đồng ý với vấn đề đào tạo ngoại ngữ trong chương trình đào tạo phù hợp với yêu cầu xã hội.
Tuy nhiên, khi đánh giá chung về khoá học đa số cựu sinh viên cảm nhận hài lòng về chất lượng đào tạo và môi trường học tập, và họ cũng đã học được những kiến thức và kỹ năng cần thiết cho công việc theo ngành Quản lý TDTT.
Có thể nói, kế hoạch đào tạo Cử nhân Quản lý TDTT của trường Đại học TDTT Bắc Ninh luôn đảm bảo yêu cầu và đúng qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong quá trình triển khai nhà trường thường xuyên rà soát, điều chỉnh, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục theo hướng hiện đại hoá nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho đất nước. Công tác tuyển sinh ngành Quản lý TDTT trong những năm gần đây gặp nhiều khó khăn về nguồn tuyển.
Đa số sinh viên ngành Quản lý TDTT sau khi ra trường đều đã có việc làm, phần lớn trong số họ thấy tương đối hài lòng với công việc đang làm. Qua thời gian làm công tác, các Cử nhân Quản lý TDTT đều được cơ quan, doanh nghiệp đánh giá đáp ứng được nhu cầu công việc về kiến thức, kỹ năng và thái độ. Tuy còn có Cử nhân Quản lý TDTT hạn chế ở 1 số kỹ năng, song phần lớn Cử nhân Quản lý TDTT Trường Đại học TDTT Bắc Ninh đã đáp ứng nhu cầu xã hội về nhân lực Quản lý TDTT.
Chương trình và nội dung chương trình đào tạo Cử nhân TDTT ngành Quản lý TDTT trường Đại học TDTT Bắc Ninh có mục tiêu đào tạo của ngành học rõ ràng; Người học dễ dàng tiếp cận thông tin về chương trình đào tạo và họ cũng đã học được những kiến thức và kỹ năng cần thiết cho công việc theo ngành Quản lý TDTT. Cần chú trọng các học phần đào tạo kỹ năng mềm như giao tiếp, làm việc nhóm, nghiên cứu khoa học; Tỉ lệ giữa các học phần lý thuyết và thực hành; cần thường xuyên cập nhật nội dung chương trình đào tạo cho phù hợp với yêu cầu xã hội./.
Cẩm Ninh