
Lãnh đạo trường Đại học Đại Nam rất quan tâm tới việc liên kết với các doanh nghiệp
để học sinh có được những trải nghiệm khi còn ngồi trên ghế nhà trường (Ảnh: TA)
Thị trường lao động và cấu trúc kinh tế luôn biến động. Trong đó, thị trường lao động ngày nay và tương lai luôn đòi hỏi người lao động cần phải có trình độ, tri thức, đặc biệt là thuần thục nhiều kỹ năng. Về phía các đơn vị sử dụng lao động ngày càng quan tâm và tham gia đầu tư mạnh mẽ trong lĩnh vực về giáo dục. Đồng thời có những đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực. Bản thân nội tại của các trường đại học cũng không ngừng đầu tư cả trong quản trị, nhân lực và học thuật để gia tăng năng lực cạnh tranh, nâng xếp hạng cả ở phạm vi trong nước và quốc tế. Những tác động đó đến các cơ sở đào tạo đã tạo nên những thời cơ và thách thức trong việc thu hút người học.
Xây dựng chương trình đào tạo sinh viên chuyên ngành Kinh tế và Marketing thể thao của trường Đại học Đại Nam là một quyết định mang tính định hướng, đáp ứng nhu cầu xã hội và đã được hoàn thiện một cách bài bản, khoa học. Song việc triển khai trong thực tế luôn là thách thức đối với các nhà quản trị và đội ngũ giảng viên. Bởi kết quả đầu ra quan trọng nhất là vào thời điểm tốt nghiệp, sinh viên sẽ tự tin và sẵn sàng quản lý các tổ chức thể thao chuyên nghiệp, các sự kiện thể thao lớn và các cơ sở thể thao. Trong điều kiện Nhà trường mới bước vào tuyển sinh và chuẩn bị đào tạo khoá đầu tiên, chắc chắn sẽ gặp phải những khó khăn nhất định.
Mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, các vấn đề lý luận về định hướng phát triển kinh tế thể thao hay công nghiệp thể thao, mô hình can thiệp (Việt Nam thuộc nhóm có Luật TDTT) sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến các nội dung giảng dạy và đào tạo kỹ năng cho sinh viên. Đây là những thách thức lớn đối với việc hoàn thiện các chuẩn đầu ra đáp ứng nhu cầu xã hội.
Khó khăn trong việc kết nối giữa Nhà trường với ngành TDTT trong nâng cao chất lượng đào tạo và trải nghiệm thực tế của sinh viên. Các quan hệ đối tác này giữ vị trí quan trọng với nội dung của chương trình đào tạo và cung cấp các cơ hội nghiên cứu chung giữa Nhà trường với ngành TDTT. Việc xây dựng được quan hệ đối tác mạnh với ngành TDTT sẽ mang đến những cơ hội tuyệt vời cho sự phát triển nghề nghiệp của sinh viên, như: Bài giảng của các chuyên gia trong ngành TDTT; Cơ hội làm việc thú vị; Môi trường học tập tương tác. Tuy nhiên, để thực hiện việc này có hiệu quả sẽ dẫn đến gia tăng kinh phí đào tạo cho cả Nhà trường và sinh viên.

Hội thảo thu được những kết quả tích cực trong công tác tuyển sinh
chuyên ngành Kinh tế & Marketing thể thao (Ảnh:TA)
Nhu cầu của sinh viên trong đào tạo luôn mong muốn kết nối với thế giới thực của hoạt động thể thao. Chẳng hạn các kết nối với: Câu lạc bộ thể thao, Công ty thể thao, Viện nghiên cứu TDTT… Bởi một phần rất quan trọng trong quá trình học tập của sinh viên là được trải nghiệm bản chất thực sự trong môi trường thể thao chuyên nghiệp ở các vị trí việc làm tương lai mà sinh viên mong muốn dựa trên nguyện vọng nghề nghiệp cá nhân của họ. Tuy nhiên, hiện nay rất thiếu các chuyên gia giỏi với kiến thức nền tảng trong ngành thể thao, những người sẽ hỗ trợ sinh viên. Tức là khó khăn trong việc sinh viên thu được kinh nghiệm thực tế bằng cách trực tiếp áp dụng những kiến thức, kỹ năng được trang bị trong Nhà trường vào trong thế giới thực. Kinh nghiệm, trải nghiệm học tập độc đáo cho sinh viên thông qua các nghiên cứu điển hình, học tập thực tế và mạng lưới trong ngành TDTT mới có thể giúp học sinh trở nên tự tin với cả khối kiến lý thuyết và thực hành được trang bị.
Khó khăn giữa giảng dạy kiến thức chuyên ngành trong nhà trường và thực tiễn kinh doanh thể thao: Điều quan trọng trong kinh doanh TDTT thì giữa các công ty với thể thao phải nhận thức được những gì đang diễn ra trên thị trường. Ví dụ, tư duy phản biện và sự sẵn sàng kết hợp các yếu tố mới phù hợp với xu hướng công nghệ, định hướng kinh doanh và xã hội hiện đại trong mô hình kinh doanh là những thông số thiết yếu để thúc đẩy khả năng cạnh tranh của bất kỳ tổ chức liên quan đến thể thao nào. Tuy nhiên, đây thực sự là vấn đề khó khăn đối với ngay cả các tổ chức thể thao/công ty. Bởi việc đo lường dữ liệu và sử dụng dữ liệu nảy sinh trong hoạt động thể thao và xác định ảnh hưởng của nó đến các mô hình thương mại của các tổ chức thể thao và các đối tác ở Việt Nam là còn hạn chế. Trong khi các điều này là thế mạnh ở các nước có nền thể thao phát triển.
Hạn chế về cơ sở vật chất hiện đại của Nhà trường về TDTT với quyền truy cập của sinh viên như: Thư viện, Công trình TDTT, Hệ thống thiết bị tập luyện và NCKH… Điều này sẽ làm giảm tính thực tế cho các nội dung giảng dạy liên quan. Đồng thời cũng giảm khả năng thực hành của sinh viên.
Từ những phân tích về thách thức nêu trên, tác giả cũng đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả triển khai Chương trình đào tạo sinh viên chuyên ngành Kinh tế và Marketing thể thao của trường Đại học Đại Nam theo định hướng đáp ứng nhu cầu xã hội:
Tăng cường kết nối giữa Trường Đại học Đại Nam với ngành TDTT (Tổng cục TDTT, Sở VH,TT&DL, Liên đoàn).
Tăng cường kết nối giữa Trường Đại học Đại Nam với Công ty/Câu lạc bộ/Cơ sở thể thao. Trong đó, quan hệ chiến lược với một số Công ty/Sở VH,TT&DL/Câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp.
Tăng cường kết nối giữa Trường Đại học Đại Nam với các cơ sở đào tạo trong lĩnh vực TDTT.
Tăng cường kết nối với đội ngũ chuyên gia, giảng viên để hỗ trợ và giảng dạy một số môn học, bài giảng, chuyên đề.
Tác giả cho rằng, những kết nối trên nhằm “kết nối đào tạo gắn liền thực tiễn”. Do vậy nó cần mang tính chiến lược, chứ không chỉ dừng ở mức độ biện pháp. Vì nguồn lực của Nhà trường là luôn giới hạn, đặc biệt là đối với lĩnh vực TDTT. Sự giới hạn này không chỉ ở mình trường Đại học Đại Nam, mà ngay cả đối với các cơ sở đào tạo có bề dày trong lĩnh vực đào tạo cán bộ TDTT. Đồng thời nó cũng là con đường để Nhà trường “kết nối” với nhiều vấn đề khác như: nghiên cứu ứng dụng thực tiễn; thu hút nhân tài; quảng bá thương hiệu; xã hội; quan hệ quốc tế…
Vân Thùy