Dinh dưỡng học đường đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển toàn diện về thể lực và trí lực của trẻ

Hiện nay, học sinh ở Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với gánh nặng kép về dinh dưỡng ở tuổi học đường và tiền học đường ở cả vùng nông thông và thành thị. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở vùng nông thôn, miền núi còn ở mức cao, tỷ lệ thừa cân béo phì đang có xu hướng tăng nhanh ở khu vực thành thị.

Dinh dưỡng học đường đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển toàn diện về thể lực và trí lực của trẻ

Dinh dưỡng cho trẻ là vấn đề cần đặc biệt quan tâm và phải có những nghiên cứu cụ thể (Ảnh: TA)

Các công trình khoa học đã ghi nhận, dinh dưỡng hợp lý kết hợp với tăng cường hoạt động thể lực chính là nền tảng cho sự phát triển: thể lực, sức khỏe, trí tuệ, tầm vóc của trẻ, khả năng kiểm soát quá trình phát triển của tình trạng béo phì và các bệnh mãn tính liên quan. Nó không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn mang ý nghĩa xã hội thiết thực như: tiết kiệm chi phí chăm sóc y tế, nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục, nâng cao trí tuệ và năng suất lao động khi trưởng thành.

Trên thế giới, một số nghiên cứu về dinh dưỡng kết hợp với hoạt động thể lực đã có từ cuối thế kỷ 20 như Ogeden, C.L và công sự (1997) đã khuyến cáo từ thời thở ấu nên khuyến khích trẻ em hoạt động thể chất và cải thiện chế độ ăn uống để ngăn chặn tình trạng thừa cân. Nghiên cứu của Haddock, Shadish, Klesges, and Stein, R.j. (1994) đã xây dựng một chương trình toàn diện điều trị thừa cân gồm: quản lý chế độ ăn uống, hoạt động thể chất và điều chỉnh hành vi. Nghiên cứu của Spencer E.Boyle và công sự (2010) và mối quan hệ giữa chất lượng cuộc sống (QoL), hoạt động thể chất (PA), chế độ ăn uống và tình trạng thừa cân ở trẻ em từ 11 đến 15 tuổi. Arne Astrup (2021) xây dựng một chương trình dinh dưỡng và kết hợp với hoạt động thể chất để giảm béo phì ở các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu.

Trong những năm gần đây, một số công trình nghiên cứu về sự kết hợp giữa dinh dưỡng và hoạt động thể chất trong việc giảm tỷ lệ béo phì, nâng cao sức khỏe và kết quả cho thấy tính hiệu quả cao của mô hình điểm trong việc giảm tỷ lệ thừa cân béo phì và các vấn đề liên quan đến thừa cân béo phì.

Dinh dưỡng học đường đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển toàn diện về thể lực và trí lực của trẻ. Ở các quốc gia phát triển như Mỹ, Anh, Nhật, chương trình bữa ăn học đường được quy định rõ ràng và cụ thể về tiêu chuẩn dinh dưỡng và điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm. Ở Mỹ, bữa ăn học đường gồm có bữa sáng và bữa trưa, mỗi bữa cung cấp khoảng 1/3 nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng cho cơ thể. Bữa ăn học đường ở Nhật Bản được chính thức coi như là một phần của các hoạt động tại trường học: Cụ thể, Nhật Bản từ năm 1954 đã có luật về dinh dưỡng học đường, để một trường học bán trú được phép đi vào hoạt động đòi hỏi phải có các quy định rất cụ thể về cơ sở vật chất, nhân lực, đào tạo và có một cử nhân dinh dưỡng được đào tạo chuyên sâu để tính toán và xây dựng thực đơn cân bằng dinh dưỡng cho nhà trường.

Luật giáo dục dinh dưỡng năm 2005 quy định tất cả các cẩp học đều phải triển khai chương trình giáo dục dinh dưỡng trong trường học. Nhật báo Washington 2013 đã viết "Nhật Bản là quốc gia thành công lớn nhất trong việc cải thiện sức khỏe học sinh thông qua bữa ăn học đường, giáo dục dinh dưỡng, sữa học đường kết hợp với GDTC". Thành công từ bữa ăn học đường kết hợp với tăng cường GDTC của Nhật Bản, không những giúp trẻ em Nhật cải thiện tình trạng dinh dưỡng, cải thiện tầm vóc mà còn tạo cho trẻ thói quen ăn uống lành mạnh, nếp sống năng động, giúp trẻ có kỹ năng nấu ăn, chọn thực phẩm lành mạnh, phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng và thừa cân, béo phì.

Nhật Bản là một trong số ít quốc gia mà xu hướng thừa cân, béo phì giảm trong những năm gần đây (dưới 10%), trong khi Việt Nam và các nước đang phát triển ở Châu Á lại có xu hướng tăng nhanh, tăng gánh nặng bệnh không lây nhiễm ở tuổi trưởng thành (tỷ lệ thừa cân, béo phì của người Nhật trong 30 năm qua dao động không đáng kể, trong khi tỷ lệ này ở các nước đang phát triển và phát triển đều tăng nhanh) góp phần làm giảm tỷ lệ tử vong do bệnh không lây nhiễm và tăng tuổi thọ ở Nhật Bản.

Thùy Anh (t/h)