Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến nâng cao thành tích thể thao

Cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 diễn ra với tốc độ nhanh theo cấp số nhân đang làm thay đổi bối cảnh toàn cầu và có tác động ngày một gia tăng đến Việt Nam, cả tác động tích cực cũng như bất lợi. Đối với lĩnh vực TDTT, nếu tận dụng tốt cơ hội và vượt qua được các thách thức, Việt Nam sẽ có khả năng thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, việc cải thiện, nâng cao thành tích cho các VĐV là nhiệm vụ khoa học quan trọng cần nghiêm túc xem xét và đầu tư.

Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến nâng cao thành tích thể thao

Những pha bóng như thế này sẽ được ghi lại để các HLV, VĐV phân tích kỹ thuật và tìm ra lối chơi tốt nhất
(Ảnh: Lâm Thỏa)

Công nghệ đang thay đổi bộ mặt của thể thao hiện đại, tâm lý học thể thao và huấn luyện thể thao. Các công nghệ tiên tiến được sử dụng để tối ưu hóa thành tích thi đấu trong các môn thể thao khác nhau như đạp xe, trượt băng tốc độ, bơi, golf, trượt tuyết, lướt sóng, các môn bóng, chạy, và nhiều môn thể thao khác. Có sáu loại hình công nghệ thể thao; mặc dù không loại trừ lẫn nhau, trong một số trường hợp, các công nghệ tương tự có thể phù hợp với nhiều lĩnh vực.

Các lĩnh vực bao gồm: công nghệ tự thân, công nghệ phục hồi chức năng, công nghệ cảnh quan, công nghệ chuyển động, công nghệ thiết bị và cơ sở dữ liệu. Mặc dù có một số công nghệ vẫn chưa có ảnh hưởng đến thể thao, song hiểu biết về nhiều loại công nghệ thể thao sẽ giúp ta có cái nhìn tốt hơn về công nghệ nào vận động viên có thể lựa chọn áp dụng và có tác động đến thành tích thể thao.

Công nghệ tự thân

Công nghệ này có tiềm năng thay đổi về cơ bản và vĩnh viễn về thể chất hoặc tâm lý của một vận động viên. Các loại thuốc tăng cường thành tích (hay còn gọi là doping) bị cấm là sự nhận dạng rõ nhất về công nghệ này. Công nghệ tự thân cũng bao gồm các phương thức cải tiến sáng tạo khác nhau, bao gồm các quy trình phẫu thuật, chân tay giả, các can thiệp tâm lý thể thao và kỹ thuật di truyền đều được phân loại là công nghệ tự thân.

Sự có mặt của một số giải pháp công nghệ tự thân nhất định trong thể thao có thể được coi là tương lai mới như đôi chân điện tử - bionic prostheses (đã được Oscar Pistorius sử dụng) hay các nhà khoa học đang phát triển một loại vắc-xin cấu tạo cơ bắp bắt nguồn từ kỹ thuật gen.

Theo quan điểm này, công nghệ tự thân không tốt cũng không xấu mà quan trọng là mục đích hoặc mục tiêu mà người sử dụng hướng tới. Ví dụ những thiết bị, dụng cụ như chân giả hoặc xe lăn, thiết yếu cho một số người khuyết tật thực hiện các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày của họ (Haisma, vanDerwoude, Slam, Bergen & Bussmann, 2006; Pasquina, Bryant, Huang, Roberts, Nelson & Flood, 2006), thì những tiến bộ trong công nghệ này sẽ trở nên hết sức có ý nghĩa.

Công nghệ cảnh quan

Loại công nghệ này liên quan đến môi trường thể thao bao gồm cách thức mà các đối tượng khán giả xem các sự kiện thể thao. Công nghệ cảnh quan tiêu biểu là sự gia tăng của các khu phức hợp thể thao đa năng hiện đại, hoàn chỉnh với các màn hình JumboTron vòm có thể kéo ra - thu vào, máy ghi hình biết bay, các đường chạy cảm biến và cỏ nhân tạo.

Các vận động viên điền kinh sử dụng chiến thuật mới bởi vì họ có thể theo dõi các đối thủ của họ trên các màn hình Jumbo Trons ở giai đoạn cuối, thậm chí cả đối với một số vận động viên ném dĩa và phóng lao.

Hệ thống định vị toàn cầu (GPS) sử dụng 24 vệ tinh và trạm thu phát mặt đất làm điểm tham chiếu để tính toán các vị trí địa lý và theo dõi chính xác một hoạt động cụ thể. Ví dụ: sử dụng một thiết bị GPS cầm tay cung cấp thông tin về độ cao, khoảng cách, thời gian và vận tốc trung bình trong quá trình đi bộ đường dài. Một biểu đồ mô tả các phần lên dốc và xuống dốc của địa hình cũng được cung cấp.

Công nghệ thể thao đã thay đổi sâu sắc môi trường tập luyện, thi đấu thể thao và nền khoa học thể dục thể thao, và có lẽ quan trọng hơn, công nghệ, theo nhiều cách, đã bắt đầu làm thay đổi cơ thể vận động viên.

Các công nghệ ứng dụng

Việc triển khai áp dụng công nghệ trong thể thao bao gồm các thiết bị, đồ dùng cho vận động viên, các dụng cụ tập luyện, thi đấu. Ví dụ khác bao gồm mũ bảo hiểm, các thiết bị cảnh báo và radio cho môn bóng đá; bộ đồ cá mập cho phép người bơi di chuyển một cách hiệu quả dưới nước và giày chạy công nghệ cao, gậy đánh golf và vợt tennis…là những kết quả hữu ích trong việc nâng cao thành tích thể thao.

Các công nghệ phục hồi chức năng

Đây là các chất và quy trình được sử dụng để điều trị chấn thương từ trung bình đến nặng. Công nghệ phục hồi chức năng cũng bao gồm các loại thuốc sử dụng cho vận động viên khỏe mạnh, những người chỉ muốn tăng cường sức đề kháng khác do chế độ luyện tập của họ gây ra. Thông thường, công nghệ này được thực hiện trong các phòng khám thể thao, các cơ sở đào tạo hoặc được quản lý bởi các chuyên gia huấn luyện thể thao có chuyên môn về y học thể thao.

Công nghệ phục hồi chức năng còn bao gồm bất kỳ loại hóa chất chống viêm nào, chẳng hạn như axit acetylsalicylic; máy tạo xoáy nước và thiết bị siêu âm mà vận động viên sử dụng để điều trị đau cơ và khớp; kích thích điện tử hoặc dòng điện xung nhỏ bắn vào khu vực bị viêm nhiễm để kích thích lưu lượng máu và hỗ trợ quá trình lành bệnh; thậm chí các kỹ thuật như châm cứu và tác động cột sống cũng được sử dụng. Ngoài ra công nghệ phục hồi chức năng điều trị bằng máy tính và cơ học cũng có thể được xem là tăng cường hiệu suất bởi vì chúng cho phép vận động viên tập luyện và thi đấu ở cấp độ mà họ không thể.

Công nghệ phân tích chuyển động

Công nghệ phân tích chuyển động đề cập đến các thiết bị và giải pháp được thiết kế để đánh giá dạng thức và hiệu quả hoạt động của cơ thể vận động viên. Phổ biến nhất trong số đó bao gồm phần mềm phân tích băng video. Bên cạnh việc giúp cải thiện các kỹ thuật hiện có của vận động viên, các dữ liệu phân tích thu được khi thực hiện các động tác kỹ thuật cũng có thể tạo điều kiện cho việc thay đổi về khái niệm hoặc về phong cách cá nhân cho phép các vận động viên thi đấu theo phương thức mới lạ về mặt cơ học, thẩm mỹ và động học.

Sự ra đời của công nghệ làm thay đổi sâu sắc bản chất của thể thao và những người tham gia hoạt động thể thao. Việc sử dụng công nghệ video tốc độ cao (công nghệ đường biên ngang) đã làm thay đổi phản ứng đối với trái bóng vượt qua vạch cầu môn mà không có mặt của trọng tài hoặc trọng tài không nhì thấy. Việc sử dụng máy quay kỹ thuật số, các loại cảm biến mang trên người, thiết bị truyền không dây và máy tính di động đã cách mạng hóa cách thức mà các huấn luyện viên và các nhà tâm lý học thể thao tương tác với mỗi cá nhân cầu thủ và với các đội bóng. Các tấm cảm biến cá nhân mang trên cơ thể vận động viên có thể thu thập những dữ liệu sinh trắc học trong thời gian thực cho biết về các quyết định huấn luyện trong một trận đấu hoặc có thể được sử dụng để phân tích tiến trình thi đấu của cầu thủ theo thời gian.

Công nghệ cơ sở dữ liệu

Công nghệ cơ sở dữ liệu liên quan đến những đổi mới về máy tính cho phép vận động viên và huấn luyện viên biết mọi thứ họ cần biết về đối thủ và bản thân họ. Các chương trình cơ sở dữ liệu đã có ảnh hưởng lớn đến cách mà nhiều huấn luyện viên và cầu thủ chuyên nghiệp thường thực hiên trong sự nghiệp thể thao của mình. Ví dụ công nghệ phản hồi thông tin (đồng hồ thể thao Nike GPS; máy đo nhịp tim Polar) cho phép cá nhân vận động viên liên tục theo dõi diễn biến của các thông số quan trọng về sinh lý và thành tích thể thao của họ.

Có thể nói, một số lượng lớn công nghệ máy tính, kỹ thuật sinh học, vật liệu mới và công nghệ năng lượng, công nghệ thông tin và lý thuyết về khoa học công nghệ hiện đại đã được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực thể thao, làm cho bộ mặt của môi trường huấn luyện thể thao có sự thay và cải tiến to lớn. /.

N.Giang