Hành trình từ Võ sĩ đến Tiến sỹ phá vỡ định kiến trên đất Nhật

Từ bỏ mức lương Tiến sĩ và công việc giảng dạy tại Tokyo, ông Phan Hữu Duy Quốc giành 7 năm chiến đấu để trở thành người nước ngoài đầu tiên vào được biên chế tập đoàn xây dựng lâu đời nhất Nhật Bản với ước mơ đem công nghệ xây dựng "thần kỳ" về nước.

Khi tham gia xây dựng tuyến metro đầu tiên tại TP HCM, ông Quốc nhận ra những nút thắt cơ chế và quyết định hồi hương để được trực tiếp góp ý, tháo gỡ các rào cản với vai trò trong tổ chuyên gia Hội đồng nghiệm thu Nhà nước.

Trong cuộc phỏng vấn với VnExpress, tiến sĩ Phan Hữu Duy Quốc nói về tinh thần võ sĩ, những năm tháng âm thầm phá vỡ định kiến tại Nhật, và lựa chọn quay về Việt Nam để góp phần gỡ nút thắt ở các công trình trọng điểm quốc gia.

Ông Phan Hữu Duy Quốc

Từng là một võ sĩ trong đội tuyển Taekwondo Việt Nam tranh vô địch SEAGAMES 19, vô địch quốc gia Nhật Bản 2022 và vô địch giải tuyển chọn VĐV đại diện Nhật Bản tranh giải thế giới - điều gì đưa anh tới với vai trò hôm nay - Tiến sĩ xây dựng, chuyên gia trong lĩnh vực hạ tầng giao thông?

- Tôi chào đời trong hầm tránh bom ở Huế, thời kỳ đất nước chia cắt. Cha mẹ đặt tên "Hữu Duy Quốc" với mong ước "có một đất nước duy nhất". Cái tên ấy như ám vào tôi một tình cảm đặc biệt, tình cảm ấy càng hiện rõ khi tôi đứng trước những quyết định lớn.

Tuổi thơ của tôi luôn song song hai việc: học để tiến thân, tập võ vì đam mê.

Năm 1996, lần đầu tiên tôi phải lựa chọn giữa hai việc đó. Khi ấy tôi đang là giảng viên của Đại học Bách Khoa. Về võ thuật, vì nhiều thành tích trước đó, tôi được chọn vào đội tuyển quốc gia chuẩn bị cho SEA Games 19. Từ đầu năm 1997, tôi lao vào luyện tập. Bỗng đến tháng 10, tôi nhận học bổng thạc sĩ toàn phần về xây dựng từ Đại học Tokyo - trường top đầu Nhật Bản.

Đó là thời điểm tôi mâu thuẫn dữ dội. Tôi nhớ mãi lời HLV Lê Trung Liêm - từng là HLV trưởng đội tuyển Việt Nam, người từng dẫn dắt tôi giành HCB quốc gia, HCV TP HCM - trước khi ông qua đời: "Thể thao ở Việt Nam thời điểm này chưa thể là một nghề lâu dài". Tôi quyết định gác lại giấc mơ khoác áo đội tuyển, chọn lên đường du học.

Những tháng đầu ở Nhật, trên chuyến tàu đi học mỗi ngày, tôi thường khóc. Tôi cứ tưởng tượng mãi về cảnh mình đứng trên bục vinh quang, đeo huy chương vàng, nghe quốc ca Việt Nam vang lên. Đó từng là điều tôi luôn khát khao từ nhỏ, và từ những ngày phải xem đội tuyển Việt Nam thi đấu qua lỗ thông gió sân Phan Đình Phùng thời sinh viên vì không có tiền mua vé.

Sau một thời gian học thạc sĩ, tôi quay lại với Taekwondo như một cách níu giữ đam mê. Trong mọi buổi tập, tôi đều mặc võ phục có cờ đỏ sao vàng. Năm 2002, tôi vô địch hạng trung giải vô địch quốc gia Nhật Bản. Năm 2003, tôi tiếp tục thắng giải tuyển chọn VĐV đại diện Nhật Bản thi đấu giải vô địch thế giới. Tôi được mời nhập quốc tịch để tranh tài. Nhưng vì Nhật không cho phép song tịch, tôi đành phải từ chối. Với tôi, bỏ quốc tịch Việt Nam là điều không thể.

Đó cũng là quyết định kết thúc hành trình võ thuật chuyên nghiệp sau đó một năm. Nhưng đến lúc ấy, những thành tựu ở "đất khách" đã phần nào xoa dịu ám ảnh về giấc mơ dang dở với đội tuyển quốc gia Việt Nam. Tôi vừa bảo vệ xong luận án tiến sĩ. Và lần đầu tiên, khi không còn vướng bận với luyện tập cường độ cao, tôi nhìn rõ con đường phía trước: tiếp tục học hỏi, tích lũy kinh nghiệm ngành xây dựng để chuẩn bị cho ngày trở về.

 Đặt xuống niềm đam mê với võ thuật, hoàn thành việc nghiên cứu tiến sĩ ngành xây dựng ở Nhật Bản, lúc đó, ông xác định con đường tiếp theo của mình là gì?

- Sau khi bảo vệ xong luận án tiến sĩ, tôi được mời làm công tác nghiên cứu và giảng dạy tại Đại học Tokyo. Một lựa chọn an toàn, danh giá. Nhưng trong thời gian đó, tôi giữ vai trò Chủ tịch Hội Thanh niên Việt Nam tại Nhật, thường xuyên làm phiên dịch, hỗ trợ các đoàn công tác từ trong nước sang. Nhờ vậy, tôi có cơ hội lắng nghe, quan sát và nhận ra: trong nước đang rất thiếu người hiểu thực tiễn thi công, thiếu cả những kỹ sư có kinh nghiệm triển khai dự án lớn.

Tôi bắt đầu lo. Chương trình học ở đại học Tokyo thiên về lý thuyết chuyên sâu, rất hàn lâm. Nếu chỉ quanh quẩn ở giảng đường, tôi sẽ không đủ khả năng đóng góp vào các công việc triển khai các dự án hạ tầng lớn khi trở về.

Trong khi đó, tôi đã có cơ hội chứng kiến và trực tiếp tham gia vào những câu chuyện thần kỳ, tưởng chừng như không thể nhưng người Nhật đã làm bình thường như thi công tuyến metro mới đi vào bên dưới nhà ga hàng không đang vận hành, đào hầm xuyên đáy biển từ hai phía cho hai mũi khoan gặp nhau dưới đáy biển...

Một quan sát thực tế rõ nhất với tôi thời điểm đó là hệ thống giao thông công cộng vượt trội của Nhật Bản. Suốt những năm sống tại Nhật, tôi chưa từng sở hữu một chiếc xe máy hay ôtô. Mọi nhu cầu đi lại hoàn toàn bằng metro và tàu điện. Tôi ao ước một ngày nào đó, Việt Nam cũng có hệ thống metro hiện đại như vậy. Từ những buổi tiếp xúc, quan sát, tôi thấy rõ đất nước đang khao khát thay đổi, và cần những chuyên gia để xoá dần khoảng cách đi sau các nước phát triển hàng chục năm.

Tôi nhận ra, nếu mình chỉ quanh quẩn ở giảng đường thì không thể tạo ra đóng góp vào việc triển khai các dự án thực tế khi trở về. Phương pháp luận, kiến thức chuyên sâu đã đủ, tôi quyết định dừng việc nghiên cứu và giảng dạy tại Đại học Tokyo, chuyển sang tìm cơ hội làm việc thực tiễn. Tôi ứng tuyển vào Shimizu - một trong những tập đoàn xây dựng lâu đời nhất Nhật Bản.

 Ông là người đầu tiên khiến Shimizu phá vỡ truyền thống 210 năm để nhận nhân sự ngoại quốc vào biên chế tập đoàn. Ông đã làm được điều đó bằng cách nào?

- Bước ngoặt này đi kèm nhiều thử thách, tôi chính thức bước vào một cuộc chiến. Lúc mới vào làm, bằng tiến sĩ của tôi gần như không mang lại lợi thế với Shimizu trên phương diện kinh nghiệm thực tiễn. Tôi bị xếp lương như sinh viên mới ra trường. Thu nhập giảm một nửa so với khi còn làm giảng viên. Giai đoạn 2005–2006, hầu như chưa tập đoàn xây dựng Nhật nào chấp nhận người nước ngoài làm nhân viên chính thức.

Tôi mất 7 năm để vào được biên chế công ty, để chứng minh rằng một người có học vị tiến sĩ cũng có những ưu thế, nếu biết vận dụng phương pháp luận, kỹ năng nghiên cứu, giải quyết vấn đề và phát triển cái mới.

Tôi chủ động tìm tòi, học nhiều hơn những gì được giao - vừa để chứng minh năng lực, vừa để mở rộng kiến thức thực tế. Tôi tự quan sát, đề xuất giải pháp và phát triển công nghệ trong xây dựng. Nhiều phát minh đã được áp dụng vào quy trình chung của Shimizu đến ngày nay.

Một trong những phát minh đầu tiên của tôi được áp dụng là thiết bị kiểm tra chất lượng bê-tông bằng vi sóng. Trong ngành xây dựng, ngày nay người ta thường dùng bê tông tươi trộn sẵn ở nhà máy, nhưng đôi khi lượng nước nhiều hơn thiết kế. Nhưng nếu nước nhiều quá thì cường độ và độ bền lâu sẽ không đạt. Vấn đề là khi bê-tông được chở tới công trường, không ai biết trong đó có bao nhiêu nước. Tôi mới nghĩ đến nguyên lý của lò vi sóng: cơm nhiều thì cần hâm lâu hơn, vì phân tử nước trong thức ăn sẽ hấp thụ và triệt tiêu sóng. Từ đó, tôi phát minh ra một thiết bị phát sóng đo lượng nước trong bê tông tươi. Phát minh này được đưa vào hệ thống quản lý chất lượng của Shimizu, dùng để đấu thầu và kiểm soát thi công đến ngày nay.

Ông Phan Hữu Duy Quốc khi tham gia nhóm nghiên cứu thi công tại ĐH Tokyo. Ảnh: Nhân vật cung cấp.

Nhờ những đóng góp đó, tôi được vào biên chế và nâng bậc lên vị trí quản lý. Nhưng đến lúc đó, định kiến vẫn chưa chấm dứt.

Có lần, tôi với tư cách đại diện phòng kỹ thuật đến kiểm tra chất lượng thi công tại công trường, tôi phát hiện ra vấn đề nhưng kỹ sư trưởng tại hiện trường gạt đi: "Tôi không cần anh". Tôi vẫn bình tĩnh giải thích, làm đúng phần việc của mình. Ngày hôm sau, mở ván khuôn, kết cấu bị lỗi đúng như tôi cảnh báo. Người kỹ sư kia bị kỷ luật nội bộ.

Tôi nhận ra, nếu mình làm đúng, đến nơi đến chốn và dám chịu trách nhiệm, thì sẽ thay đổi cách nhìn của họ. Với tôi, hành trình đó là một cuộc chiến âm thầm, dùng kết quả nói lên sự thật. Sau tôi, nhiều người nước ngoài khác vào Shimizu và được nhận chính thức ngay từ đầu.

Tôi luôn làm mọi thứ với tinh thần của một võ sĩ.

Các môn võ thường gắn với chữ "đạo": Nhu đạo, Triệt quyền đạo, Thái cực đạo (Taekwondo), Không thủ đạo (Karate-do) - con đường của sự kỷ luật, kiên trì và ý chí nghị lực. Võ sĩ Nhật thì có cụm từ là "tinh thần samurai" - không được phép bỏ cuộc, khi đã bước lên sàn đấu thì phải đánh như thể đó là trận cuối cùng trong đời, đánh tới khi nào gục xuống thì thôi.

Tôi cũng nhận ra dùng võ thuật không chỉ học cách chiến thắng đối thủ, mà học cách chiến thắng chính mình. Có lần thầy bắt tôi đứng tấn suốt 60 phút. Ban đầu, cơ thể muốn bỏ cuộc. Nhưng vượt qua được, mình bỗng hiểu rằng, nếu kiểm soát được cơ thể, mình cũng sẽ kiểm soát được suy nghĩ, phản ứng, sự kiên nhẫn.

Tôi từng buộc hai tay trước ngực để tập đá hàng nghìn lần vào thân cây nhằm tách chuyển động của thân trên với chuyên động của đôi chân và ánh mắt - một cách luyện để vô hiệu hoá sự phán đoán của đối phương. Tôi rèn tâm lý bằng cách đi chân trần trên sỏi nhọn nhưng không nhăn mặt hay một mình đi qua nghĩa địa giữa đêm. Những bài tập đó giúp tôi giấu cảm xúc, chịu đau đớn mà không biểu lộ cảm xúc, đặc biệt là không bỏ cuộc.

Tôi mang tinh thần "samurai" vào mọi khía cạnh từ rèn luyện, nghiên cứu tới làm việc.

 Gần 20 năm sinh sống và nỗ lực ở Nhật, điều gì khiến ông một lòng giữ quốc tịch Việt Nam?

- Quyết định không nhập tịch đúng là đã khiến tôi gặp rất nhiều bất lợi. Là người ngoại quốc tôi chỉ được ký hợp đồng lao động từng năm, đối mặt nguy cơ bị cắt hợp đồng nếu không đạt yêu cầu, dẫn đến việc không gia hạn được visa. Điều này tạo ra sự bất ổn và giới hạn thời gian làm việc. Nếu nhập quốc tịch Nhật, tôi có thể làm bất kỳ công việc nào mà không lo giới hạn thị thực.

Tuy nhiên, điều đó đối với tôi không phải vấn đề. Với hàng chục năm sinh sống, đóng thuế, làm việc tại Nhật, việc xin quốc tịch với tôi là hoàn toàn khả thi. Nếu muốn, tôi chỉ cần nộp hồ sơ, gần như chắc chắn được chấp thuận nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ tới.

Tôi còn mơ ước trở về đóng góp bằng những gì mình đã được học. Được góp sức bằng quốc tịch Việt Nam tôi sẽ cảm thấy tự hào hơn.

Ngoài việc đào sâu nghiên cứu kiến thức, kinh nghiệm trong ngành xây dựng ở Nhật Bản, ông còn chuẩn bị gì cho mục tiêu quay về?

- Hai tài sản lớn nhất tôi mang về là tri thức thực tiễn và các mối quan hệ, cả với người Việt Nam lẫn người Nhật. Gần 10 năm sau khi rời Đại học Tokyo, tôi đào sâu trong thị trường xây dựng Nhật Bản, học cách vận hành thực tế. Song song đó, tôi tích cực xây dựng mạng lưới. Từ thời còn làm Chủ tịch Hội thanh niên - sinh viên Việt Nam tại Nhật Bản, đến khi giữ vai trò Phó Chủ tịch Hội người Việt tại Nhật, hay Trưởng nhóm phụ trách quan hệ Việt Nam - Nhật trong các hiệp hội kỹ sư xây dựng Nhật Bản, hội đồng nghiên cứu..., tôi có cơ hội làm quen và giữ liên lạc với nhiều người. Nhiều bạn học nay là hiệu trưởng, viện trưởng, lãnh đạo các cơ quan nhà nước. Nhiều bạn Nhật từng là đồng nghiệp, khi tôi cần tài liệu hoặc hỗ trợ, họ vẫn sẵn sàng giúp đỡ.

Mạng lưới không tự nhiên mà có, càng không thể xây trong một vài năm. Bởi vậy, tôi cho rằng càng ở lâu, càng tích luỹ được nhiều giá trị trước khi trở về. Cá nhân tôi chọn trở về, nhưng tôi không nghĩ những người Việt chưa trở về là không có đóng góp. Thế giới bây giờ đã phẳng. Có những cuộc họp hội đồng chuyên gia của thành phố, có người từ Đức, Pháp, Singapore vẫn tham gia đều đặn - họ đều là chuyên gia người Việt sống ở nước ngoài. Họ vẫn cống hiến, chỉ là theo cách khác.

Tôi trở về vì thấy mình đã đủ đầy: cả kinh nghiệm thực tiễn lẫn một mạng lưới đủ vững để bắt tay vào làm điều gì đó cho đất nước. Nhưng tôi tin, dù ở đâu, điều quan trọng nhất vẫn là giữ được sợi dây gắn bó với Tổ quốc - không nhất thiết phải đo bằng khoảng cách địa lý.

Vậy cơ duyên đưa ông về lại Việt Nam sau 20 năm học và làm việc ở Nhật là gì?

- Năm 2014, khi TP HCM bắt đầu triển khai tuyến Metro số 1, Shimizu Corporaion tham gia đấu thầu gói CP1b xây dựng đoạn ngầm ga Bến Thành - Suối Tiên, tôi chủ động đề xuất công ty cho phép tham gia dự án. Họ đồng ý ngay, bởi từ lâu họ đã biết tôi có mạng lưới quan hệ rộng từ các cuộc tiếp xúc trước đó, khả năng sử dụng thành thạo tiếng Anh, Nhật và Việt, kinh nghiệm thực tiễn về công trình ngầm đô thị tại Nhật Bản.

Từ 2014, tôi tham gia trực tiếp vào giai đoạn khởi động xây dựng tuyến Metro số 1, đi lại giữa Nhật Bản và Việt Nam trong ba năm theo hình thức công tác dài ngày. Đây là quãng thời gian ý nghĩa nhất đối với tôi vì được tham gia đặt những viên gạch đầu tiên cho tuyến Metro số 1 của thành phố. Nhưng cũng chính nơi đây, tôi chứng kiến rất nhiều khó khăn. 20 km metro đầu tiên tuyến Bến Thành - Suối Tiên, mất 17 năm để hoàn thành, công trình bị chậm trễ bởi "ma trận cơ chế", những rào cản hành chính và pháp lý. Có lúc thành phố không giải ngân được, nhà thầu bị nợ hàng ngàn tỷ đồng.

Tôi nhận ra, nếu cứ ở vai trò nhà thầu, mình chỉ chịu đựng, không thay đổi được điều gì. Giống như hai võ sĩ sumo lao vào nhau bằng trán - càng cố càng bế tắc. Tôi cần một cách tiếp cận khác. Phải bước ra khỏi vai trò "người trong trận", để quan sát và góp phần thay đổi cuộc chơi từ bên ngoài.

Tôi chọn rời khỏi tập đoàn Nhật, gia nhập công ty xây dựng trong nước. Tôi coi đây là công việc chính để đảm bảo thu nhập cho bản thân và gia đình.

Song song đó, tôi tham gia tham gia hàng loạt tổ tư vấn về đường sắt đô thị, đường cao tốc, tổ chuyên gia Hội đồng Nghiệm thu Nhà nước cho các công trình trọng điểm quốc gia, hay lãnh đạo các hiệp hội xây dựng. Đây là cách tôi cùng các cơ quan quản lý góp ý tháo gỡ điểm nghẽn trong phát triển hạ tầng đô thị Việt Nam. Với tôi, trí thức không chỉ là làm chuyên môn để mưu sinh, mà còn là trách nhiệm xã hội, cho đi mà không cần thù lao, đó là niềm vui. Gần đây, Quốc hội đã thông qua đề án phát triển đường sắt đô thị Hà Nội - TP HCM, trong đó, nhiều góp ý của tôi đã được ghi nhận.

Ngoài tuyến Metro số 1 TP HCM, metro Hà Nội, tôi còn tham gia góp ý và cố vấn cho nhiều công trình trọng điểm quốc gia khác như Vành đai 3, Vành đai 4. Với Vành đai 3 TP HCM, tôi được mời tham gia từ những phiên thảo luận đầu tiên, từ giai đoạn thiết kế cho đến triển khai. Sắp tới, khi mở rộng tuyến sang Bình Dương và các địa phương khác, tôi cũng tiếp tục giữ vai trò cố vấn.

Trong vai trò là thành viên tổ chuyên gia của Hội đồng nghiệm thu Nhà nước, tôi còn thường xuyên tham gia kiểm tra các dự án lớn như cầu Mỹ Thuận 2, cầu Rạch Miễu 2, nhà máy điện Nhơn Trạch... Cứ ba tháng, chúng tôi lại xuống công trình một lần để rà soát kỹ thuật, giám sát chất lượng thi công, hướng dẫn chủ đầu tư và nhà thầu thực hiện đúng quy định. Có những buổi, tôi phải họp online ngay với công trường để cùng anh em tìm ra giải pháp xử lý vấn đề.

Sau 8 năm gắn bó với Việt Nam, có góc nhìn của cả nhà thầu và người nghiệm thu, anh nhận thấy vấn đề gì trong việc phát triển hạ tầng đô thị của TP HCM?

- Tôi cho rằng, có hai vấn đề cốt lõi trong phát triển hạ tầng đô thị TP HCM. Đầu tiên là việc phân quyền cho chính quyền đô thị còn chưa thực chất. Cho đến nay, từ tuyến metro đến các dự án vành đai, thành phố vẫn phải xin ý kiến và chờ phê duyệt từ Trung ương. Mỗi lần cần làm gì mới, lại xin cơ chế "đặc thù" - nghĩa là cơ chế hiện hành chưa đủ linh hoạt để đô thị lớn như TP HCM chủ động hành động theo nhu cầu thực tế. Không có sự tự chủ rõ ràng, địa phương vừa thiếu quyền quyết, vừa khó chịu trách nhiệm.

Nhưng mặt khác, tôi cũng thấy một vấn đề lớn không kém: được trao quyền rồi, liệu có đủ năng lực để làm không? Từ nguồn lực con người cho đến kinh nghiệm triển khai, cả phía cơ quan nhà nước lẫn doanh nghiệp tư nhân đều còn hạn chế.

Thực tế gần đây cho thấy, dù thành phố lập ban chỉ đạo, lãnh đạo cao cấp trực tiếp đứng đầu, nhưng hiệu quả chưa rõ rệt. Vì vậy, làm thế nào để địa phương thực sự sẵn sàng khi được trao quyền? Tự chủ không thể là khẩu hiệu. Nó cần đi kèm với năng lực vận hành, với con người, với thể chế đủ linh hoạt. Và nếu không chuẩn bị ngay từ bây giờ, thì dù có được trao quyền, chúng ta cũng khó mà đi nhanh, đi xa trong việc phát triển hạ tầng đô thị một cách bền vững.

Rồi cả năng lực của các doanh nghiệp xây dựng trong nước. Có thể TP HCM được trao quyền chỉ định thầu cho một tuyến metro, nhưng thử hỏi: có mấy doanh nghiệp trong nước đủ sức làm trọn gói một tuyến đường sắt đô thị? Có bao nhiêu đơn vị đủ năng lực kỹ thuật, quản trị, tài chính để tự chủ một dự án hạ tầng lớn?

Tôi từng đề xuất thẳng: không có gì ngại khi hợp tác với các tập đoàn nước ngoài trong các dự án có hàm lượng kỹ thuật cao. Quan trọng là học được cách họ làm, tích lũy kinh nghiệm thật, rồi mới chuyển giao dần, đến lúc thực sự đủ lực thì mới tính đến chuyện "làm một mình".

Ông có hiến kế giải pháp nào cho hai vấn đề vừa nêu?

- Với tôi, hai điều kiện tiên quyết để TP HCM phát triển hạ tầng đô thị mạnh mẽ hơn là: trao quyền thực sự cho chính quyền đô thị và chuẩn bị nguồn lực đủ mạnh để sử dụng quyền đó hiệu quả.

Muốn làm được điều đó, phải bắt đầu từ con người. Tức là có cơ chế thu hút nhân tài, nhất là chuyên gia có kinh nghiệm sâu trong lĩnh vực hạ tầng, kể cả từ khu vực tư nhân hoặc người Việt đang làm việc ở nước ngoài. Gần đây, chúng ta bắt đầu có một số chính sách mở hơn, ví dụ như cho phép cá nhân không thuộc biên chế Nhà nước tham gia điều hành. Tôi cho rằng, chuyên gia nên là người đưa ra ý kiến chiến lược, phản biện chính sách, tham gia vào quy trình thẩm định, đề xuất và điều phối, chứ không phải ngồi vào vị trí điều hành hệ thống.

Ngoài ra, cơ chế nhân sự và tài chính cần phù hợp cho chuyên gia. Hiện tại, khi thành phố lập ban chỉ đạo các dự án lớn như metro hay vành đai, vẫn chủ yếu là những gương mặt quen thuộc trong hệ thống. Các chuyên gia được mời chủ yếu là do thiện chí cá nhân và đam mê đóng góp. Cũng không thể chỉ trông cậy vào lòng nhiệt thành - mà phải tạo ra cơ chế công bằng, minh bạch, để người giỏi có thể góp sức một cách đường hoàng, hiệu quả và lâu dài.

Tôi không nói việc mời chuyên gia là để trả lương cao. Đa số anh em tham gia vì trách nhiệm, vì tâm huyết. Nhưng không thể trông chờ mãi vào đam mê. Cần có một điểm cân bằng giữa tinh thần trách nhiệm xã hội và sự ghi nhận thực chất.

Ngoài tham gia hàng loạt tổ chuyên gia, tư vấn, ông còn khởi xướng và chủ trì chuỗi gần 30 hội thảo trong ngành xây dựng suốt 4 năm qua. Ông kỳ vọng điều gì từ những hoạt động này?

- Quá trình góp ý, tư vấn, tôi nhận ra, nếu cứ làm một mình, tầm ảnh hưởng sẽ rất giới hạn. Phải lan tỏa, không chỉ tri thức, mà còn là cách nghĩ, cách làm. Mục tiêu của tôi với chuỗi hoạt động này là lan toả triết lý: chia sẻ và học tập suốt đời.

Tôi từng gửi tài liệu cho đồng nghiệp, nhưng có người chỉ giữ cho riêng mình, cất vào tủ rồi... để đó. Tôi cảm nhận được khoảng trống: chuyên gia ít chia sẻ, người làm thực tiễn thì nghĩ rằng ra trường rồi là không cần học thêm. Trong khi nếu không có sự gặp gỡ giữa hai phía ấy - người chia sẻ và người muốn học - thì ngành xây dựng khó mà tiến bộ.

Tôi thử tổ chức buổi hội thảo online đầu tiên ngay trong dịch thì bất ngờ có đến 700–800 người tham gia. Rõ ràng, nhu cầu là có, nhưng không ai khơi dậy.

Và tôi tiếp tục làm đều đặn, liên tục. Đằng sau những buổi hội thảo ấy là triết lý rất rõ ràng: người có kiến thức thì phải chia sẻ. Người đi làm rồi vẫn phải học, học suốt đời.

Nội dung các hội thảo cũng xuất phát từ hơi thở ngành nghề. Ví dụ, khi quy định mới về phòng cháy chữa cháy gây bối rối, khiến hàng loạt dự án đình trệ, tôi tổ chức buổi trao đổi chuyên sâu với gần 900 người tham dự online.

Nếu để đo đếm hiệu quả những hoạt động này bằng con số cụ thể thì rất khó. Tôi không kỳ vọng quá lớn, chỉ mong rằng trong số hàng trăm, thậm chí hàng nghìn người tham gia mỗi buổi hội thảo, sẽ có ai đó thay đổi nhận thức, mở rộng hiểu biết, nâng nền kiến thức của mình lên một chút.

Tôi hay ví ngành xây dựng như bèo và nước. Bèo là các công trình, những việc cụ thể. Còn nước là nền tảng, là kiến thức, là ý thức, là nhận thức chung của toàn ngành. Nước nổi thì bèo mới nổi.

Tôi làm những hội thảo đó với mong muốn góp phần "nâng nước" lên. Khi nền chung cao hơn, thì công trình nào cũng có thể đi xa hơn, chắc chắn hơn.

Rất vui có nhiều lần, tình cờ có người lạ đến bắt tay và nói: "Em từng dự hội thảo của anh," hay "Nhờ buổi chia sẻ đó mà em hiểu ra vấn đề." Những câu nói đó đơn giản, nhưng với tôi, là động lực để tiếp tục.

Nhìn lại hành trình của bản thân từ khi qua Nhật tới khi quay về nước và đóng góp cho việc phát triển hạ tầng đô thị Việt Nam, anh thấy gì?

- Đó là một hành trình dài, từ tiếp cận, thẩm thấu, đến thay đổi nhận thức và cách làm.

Tôi học được rằng nếu giữ góc nhìn tích cực, giữ một cái tâm trong sáng và thực sự muốn đóng góp, thì sẽ dần tạo được tác động. Ngược lại, nếu chỉ đứng ngoài chỉ trích, phê phán, sẽ rất khó tạo ra thay đổi.

Một điều quan trọng khác: đừng kỳ vọng sẽ nhận lại được lợi ích tức thì từ những đóng góp chung. Tôi chọn tách bạch một bên là công việc chuyên môn để tự lo cuộc sống, một bên là các hoạt động chia sẻ, đóng góp với tư cách một người có trải nghiệm và trách nhiệm xã hội.

Thành quả khiến tôi mãn nguyện nhất không nằm ở vị trí hay thành tích cá nhân, mà là khoảnh khắc thấy một đề xuất được lắng nghe, một chính sách được Quốc hội thông qua.

Sau gần một thập kỷ về nước, tôi thấy ngành xây dựng hiện nay đã tiệm cận nhiều chuẩn mực quốc tế về kỹ thuật. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn yếu ở phần "mềm" - quản lý hợp đồng, điều phối dự án, kiểm soát rủi ro, lên kế hoạch và xử lý xung đột. Những yếu tố đó ảnh hưởng lớn đến hiệu quả cuối cùng, nhưng chưa được chú trọng đúng mức. Nhiều doanh nghiệp vẫn làm theo kiểu tùy cơ ứng biến, thiếu hệ thống và kế hoạch bài bản.

Tôi mong rằng trong thời gian tới, nhận thức về vai trò của năng lực quản lý sẽ được nâng lên, để đi song song với kỹ thuật - công nghệ. Khi đó, doanh nghiệp trong nước mới thật sự sẵn sàng nhận và làm chủ các dự án hạ tầng quy mô lớn.

Với chính quyền cũng vậy. Cả hai - nhà nước và tư nhân - đều cần phát triển năng lực một cách thực chất. Sự lớn lên nào cũng cần thời gian, nỗ lực và quá trình học hỏi thật sự.

Theo VnExpress

 

Ảnh trong bài
  • Hành trình từ Võ sĩ đến Tiến sỹ phá vỡ định kiến trên đất Nhật
  • Hành trình từ Võ sĩ đến Tiến sỹ phá vỡ định kiến trên đất Nhật
  • Hành trình từ Võ sĩ đến Tiến sỹ phá vỡ định kiến trên đất Nhật