Pháp luật về Thể dục, thể thao bao gồm hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành về Thể dục, thể thao hoặc có liên quan đến hoạt động và kinh doanh Thể dục, thể thao như: Hiến pháp; Luật Thể dục, thể thao; Nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; Nghị quyết của Chính phủ trước ngày Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 có hiệu lực thi hành (01/01/2009), Nghị định của Chính phủ; Quyết định, (Chỉ thị trước ngày 01/01/2009) của Thủ tướng Chính phủ; Thông tư, Thông tư liên tịch, (Quyết định, Chỉ thị trước ngày 01/01/2009) của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ; Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; Quyết định, Chỉ thị của UBND.
Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quy định trong những văn bản này là vi phạm pháp luật về Thể dục, thể thao.
Những hành vi vi phạm pháp luật về thể dục, thể thao đều có biện pháp, chế tài xử lý từ nhẹ đến nặng tuỳ theo mức độ vi phạm. Việc áp dụng các chế tài xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật về thể dục, thể thao được thống nhất áp dụng theo quy định của pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, pháp luật về lao động, pháp luật về cán bộ, công chức và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Ví dụ hành vi sử dụng đất dành cho TDTT đem cho người khác thuê để kinh doanh dịch vụ hàng hoá khác lấy tiền “chia nhau nâng cao đời sống”cho một số cá nhân được giao quản lý sử dụng đất cho TDTT là hành vi sử dụng đất không đúng mục đích thì không những bị xử lý theo quy định của Luật đất đai, Luật Thể dục, thể thao như bị xử phạt vi phạm hành chính, buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra, thu hồi đất trả lại cho hoạt động TDTT. Nếu hành vi đó gây hậu quả nghiêm trọng được cơ quan điều tra kết luận là phạm tội thì sẽ bị xử lý theo luật hình sự, luật phòng chống tham nhũng, luật cán bộ công chức... Tổ chức, cá nhân nào có các hành vi bị nghiêm cấm nêu trên dù cố ý hay vô ý cũng đều bị xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành.
Xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thể dục, thể thao được tiến hành theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể dục, thể thao đối với những hành vi vi phạm phạm pháp luật về quản lý nhà nước về TDTT mà không phải là tội phạm, bao gồm: hành vi vi phạm quy định của pháp luật trong các hoạt động tuyển chọn, đào tạo VĐV; tổ chức thi đấu, biểu diễn thể thao; quản lý các đội tuyển thể thao; công tác y tế, cứu hộ, phục vụ tập luyện, thi đấu thể thao; quảng cáo và dịch vụ trong lĩnh vực thể dục, thể thao.
Đối với những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thể dục, thể thao nếu có dấu hiệu phạm tội thì phải chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để tiến hành các thủ tục tố tụng theo luật định. Kết luận điều tra là căn cứ để xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật này.
Các hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội xảy ra khi tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính có liên quan.
Vũ Trọng Lợi