Những kết quả cơ bản sau 8 năm thực hiện Chỉ thị 17-CT/TW
Nhận thức về vai trò, vị trí của công tác TDTT trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, của cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng được nâng cao; công tác thể dục thể thao được coi là một nhiệm vụ trọng tâm nhằm góp phần nâng cao sức khoẻ toàn dân, phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo nền tảng vững chắc để phát triển thể thao thành tích cao. Thể dục thể thao quần chúng ở cơ sở tiếp tục được phát triển rộng trên tất cả các đối tượng và địa bàn theo hướng xã hội hoá với nhiều hình thức đa dạng; chất lượng phong trào từng bước được nâng lên. Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” tiếp tục được mở rộng, thu hút sự tham gia của đông đảo quần chúng, góp phần nâng cao sức khoẻ, xây dựng đời sống văn hoá lành mạnh ở cơ sở. Hoạt động thể dục thể thao của người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được quan tâm hơn; các phương pháp dưỡng sinh cổ truyền, các trò chơi dân gian và một số môn thể thao dân tộc được khôi phục và phát triển mạnh mẽ. Công tác giáo dục thể chất và thể thao trong trường học đã có những chuyển biến bước đầu; hình thức tổ chức và nội dung tập luyện TDTT của học sinh, sinh viên ngày càng đa dạng. Đội ngũ giáo viên TDTT ở các trường học được đào tạo chuyên môn TDTT, nâng cao kiến thức từng bước đáp ứng được yêu cầu; chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học bước đầu được đổi mới. Thể thao thành tích cao đạt được nhiều thành tích, thể hiện trên số lượng huy chương đạt được tại các cuộc thi đấu quốc tế. Việt Nam đã đăng cai tổ chức thành công nhiều sự kiện thể thao lớn, đặc biệt là tổ chức tốt SEA Games lần thứ 22 năm 2003 và Đại hội Thể thao châu Á trong nhà lần thứ 3 tại Việt Nam năm 2009 (Asian Indoor Games III-2009). Công tác tổ chức, quản lý ngành TDTT được tăng cường một bước và đang dần được củng cố. Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành TDTT bước đầu được quy hoạch, đầu tư, nâng cấp và xây dựng mới; hợp tác quốc tế về thể thao ngày càng được tăng cường và mở rộng, vị thế của thể thao Việt Nam đã được nâng cao.
Đạt được những thành tự trên là nhờ có sự phấn đấu nỗ lực của đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân, của ngành TDTT; sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền; sự tham gia tích cực và có hiệu quả của các ban, ngành, Mặt trận tổ quốc, đoàn thể, tổ chức xã hội và đông đảo nhân dân.
Tuy nhiên, thể dục thể thao quần chúng phát triển mạnh nhưng chưa đều, chất lượng chưa cao. Đặc biệt, các vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo còn thiếu các phương tiện tập luyện và thiếu cán bộ hướng dẫn viên thể dục thể thao; những yếu kém trong TDTT trường học chưa có bước chuyển mạnh mẽ. Thành tích thi đấu của thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp nước ta có tiến bộ đáng kể so với khu vực Đông Nam Á, nhưng chưa ổn định vững chắc và chưa đạt được thứ hạng cao trong các Đại hội thể thao Châu Á, Đại hội thể thao Olympic. Lực lượng vận động viên, huấn luyện viên, trọng tài còn thiếu và yếu; các hành vi, vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp còn gia tăng; các hình thức quản lý thể dục thể thao phù hợp với cơ chế thị trường chưa được nghiên cứu và chậm đổi mới.
Những nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên trước hết do một số cấp uỷ Đảng, chính quyền chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đầu tư cho công tác thể dục thể thao. Công tác thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Đảng liên quan tới TDTT còn chậm; các cơ chế, chính sách đặc thù liên quan tới hoạt động thể dục thể thao còn chậm và chưa đồng bộ. Việc tổ chức các giải thi đấu thể thao còn bộc lộ nhiều yếu kém. Đội ngũ cán bộ thể dục thể thao, nhất là cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, huấn luận viên, giáo viên, còn thiếu và yếu. Đầu tư cho thể dục thể thao nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Ngành Giáo dục đào tạo còn thiếu những giải pháp mang tính khả thi trong việc tăng cường công tác TDTT trường học.
Cùng với những yếu kém trên, công tác thể dục thể thao ở nước ta đang đứng trước những thách thức to lớn:
Sự biến đổi về quy mô, cơ cấu và phân bố dân số. Dự báo, đến năm 2020, dân số cả nước có khoảng 97,5 triệu người; cùng với việc tăng tỷ trọng công nghiệp, tiếp tục có làn sóng di cư từ nông thôn ra thành thị, gây khó khăn đối với việc bảo đảm các dịch vụ TDTT ở khu vực đô thị. Phần lớn thanh niên và một bộ phận những người trung niên ở độ tuổi lao động di cư ra thành phố để kiếm việc làm, tiếp tục gây khó khăn cho việc duy trì phong trào TDTT ở khu vực nông thôn và cơ sở vật chất ở đô thị không đáp ứng được yêu cầu của dân cư đông đúc.
Kinh tế đất nước ngày càng phát triển, thu nhập cũng như năng suất lao động được cải thiện dẫn tới quỹ thời gian dành cho các hoạt động giải trí và nhu cầu tập luyện TDTT của người dân ngày càng tăng, đòi hỏi nhà nước và chính quyền các cấp phải tăng cường các điều kiện về đất đai, cơ sở vật chất, sân bãi, trang thiết bị, hướng dẫn viên... để đáp ứng nhu tập luyện TDTT của nhân dân.
Sức ép về cạnh tranh thành tích thể thao giữa các quốc gia. Thành tích thể thao của một quốc gia không chỉ được coi là thành tích chuyên môn đơn thuần mà thông qua đó, thể hiện sức mạnh và năng lực sáng tạo của đất nước.
Chuyển đổi tư duy, nhận thức và cơ chế tổ chức điều hành, tác nghiệp TDTT tiếp tục được coi là một thách thức trong giai đoạn tới. Việc phải tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá và mở rộng chuyên nghiệp hoá thể thao sẽ đặt ra nhiều vấn đề phải chuyển đổi trong tổ chức bộ máy, hệ thống chính sách, cơ chế quản lý, điều hành đối với hoạt động TDTT. Tổ chức bộ máy của ngành TDTT vẫn còn gặp nhiều khó khăn; sự thiếu hụt về cán bộ TDTT ở cơ sở tiếp tục là thách thức trong giai đoạn tới.
Cơ chế thị trường tiếp tục đặt ra những vấn đề mới cần phải giải quyết. Trước hết là việc vừa kết hợp giữa đẩy mạnh xây dựng kinh tế thể thao ở nước ta, dần đưa lĩnh vực TDTT thành một ngành kinh tế, dịch vụ mang lại lợi nhuận, có đóng góp vào kinh tế đất nước, với việc phải tiếp tục đảm bảo các dịch vụ phúc lợi về TDTT phục vụ nhu cầu ngày càng tăng của quần chúng nhân dân.
Năm 2011 và những năm tiếp theo, trước những yêu cầu mới, sự nghiệp thể dục thể thao cần được tiếp tục phát triển với mục tiêu đã nêu trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đề ra với nhiệm vụ, giải pháp:
Tiếp tục mở rộng và đa dạng hóa các hoạt động TDTT quần chúng, thể dục thể thao giải trí để nâng cao sức khoẻ nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tăng tuổi thọ của người Việt Nam, đáp ứng nhu cầu giải trí của xã hội và tạo thói quen hoạt động, vận động hợp lý suốt đời. Đẩy mạnh công tác giáo dục thể chất và thể thao trường học, bảo đảm yêu cầu phát triển toàn diện, góp phần nâng cao thể trạng, tầm vóc người Việt Nam, làm nền tảng cho phát triển thể thao thành tích cao và xây dựng lối sống lành mạnh trong tầng lớp thanh, thiếu niên. Tích cực phát triển thể dục thể thao trong lực lượng vũ trang, góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng toàn dân.
Xây dựng nền TDTT phát triển, tiến bộ, đổi mới và hoàn thiện hệ thống tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao; gắn kết đào tạo giữa các tuyến, các lớp kế cận, có sự quản lý; thống nhất trong các cấp về công tác chỉ đạo phát triển cơ bản, bền vững thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp. Phát triển thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp phù hợp với đặc điểm thể chất người Việt Nam, trình độ phát triển kinh tế-xã hội và truyền thống dân tộc; tăng cường hội nhập quốc tế; không ngừng nâng cao thành tích thể thao, duy trì, ổn định vị trí là một trong ba quốc gia có thành tích thể thao đứng đầu khu vực Đông Nam Á, thu hẹp khoảng cách trình độ đối với thể thao châu Á và thế giới, nâng cao vị thế của Việt Nam trên đấu trường thể thao quốc tế; đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá, tinh thần của nhân dân; góp phần tích cực thực hiện chủ trương ngoại giao nhân dân của Đảng và Nhà nước.
Các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của TDTT trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển TDTT phải được coi là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên của mặt trận tổ quốc.
Tăng cường kiểm tra, giám sát các cấp uỷ và chính quyền trong xây dựng và thực hiện quy hoạch phát triển sự nghiệp TDTT, quy hoạch đất, công trình TDTT công cộng trên địa bàn.
Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phong trào TDTT quần chúng, gắn với cuộc vận động toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại, cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Tăng mức độ hưởng thụ dịch vụ TDTT của người dân thông qua việc tăng cường các thiết chế TDTT ở cơ sở và xây dựng các công trình thể thao phúc lợi, các điểm tập với trang, thiết bị đơn giản, thực hiện bằng phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm. Triển khai các chương trình hỗ trợ phát triển TDTT ở vùng biên giới, núi cao, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các địa phương có điều kiện kinh tế khó khăn để đảm bảo công bằng xã hội trong thụ hưởng các dịch vụ TDTT.
Chú trọng công tác giáo dục thể chất và phong trào thể thao trong trường học các cấp. Đổi mới nội dung, giáo trình, chương trình giáo dục thể chất phù hợp với thể chất học sinh, sinh viên Việt Nam và tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khoá với các tiêu chí đánh giá cụ thể, linh hoạt.
Từng bước hiện đại hoá hệ thống đào tạo tài năng thể thao quốc gia; đổi mới công tác tuyển chọn; lựa chọn các môn thể thao trọng điểm để đầu tư và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong quá trình đào tạo vận động viên; mở rộng quy mô và hiện đại hóa các trung tâm vùng và trung tâm thể thao quốc gia, hình thành một số cơ sở chuyên sâu trong các môn thể thao mũi nhọn và các môn thể thao Việt Nam có ưu thế. Tổ chức, điều hành phát triển các môn thể thao thành tích cao theo hướng chuyên nghiệp; đẩy mạnh việc xác định môn thể thao chuyên nghiệp để có chính sách phát triển phù hợp.
Ổn định bộ máy quản lý nhà nước về TDTT đảm bảo đủ năng lực. Đẩy mạnh cải cách hành chính và phân cấp quản lý, điều hành các hoạt động TDTT; nâng cao năng lực của cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp, hoạch định chính sách, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra đối với các hoạt động sự nghiệp về TDTT trong tình hình mới.
Đổi mới chính sách đầu tư cho phát triển TDTT theo hướng nhà nước tăng tỷ trọng chi ngân sách cho hoạt động TDTT kết hợp với tăng cường các chính sách khuyến khích để thu hút nguồn lực đầu tư từ xã hội; ưu tiên chi ngân sách nhà nước cho việc xây dựng mạng lưới công trình TDTT, đào tạo tài năng thể thao quốc gia, phát triển khoa học công nghệ về TDTT, hỗ trợ phát triển phong trào TDTT ở các vùng, miền có điều kiện kinh tế khó khăn, công tác giáo dục thể chất và thể thao trường học.
Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong mọi lĩnh vực họat TDTT, ưu tiên triển khai các đề tài khoa học, công nghệ trực tiếp phục vụ công tác đào tạo vận động viên và chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Triển khai chương trình nâng cao thể lực, tầm vóc người Việt Nam bằng thể thao và dinh dưỡng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, cơ chế chính sách để nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Olimpic, các liên đoàn, hiệp hội thể thao quốc gia; phát triển hệ thống liên đoàn, hiệp hội thể thao đến cơ sở. Kết hợp với việc kiện toàn, nâng cao năng lực của các tổ chức xã hội về TDTT, đẩy mạnh phân cấp và có cơ chế chính sách khuyến khích các tổ chức xã hội, đơn vị sự nghiệp, đơn vị ngoài công lập tổ chức các hoạt động TDTT.
Phát triển kinh tế thể thao, tập trung mở rộng các dịch vụ tập luyện, thi đấu và các loại hình thể thao giải trí; có cơ chế, chính sách khuyến khích sản xuất trang, thiết bị, dụng cụ TDTT phục vụ nhu cầu trong nước; nghiên cứu triển khai thí điểm hoạt động đặt cược thể thao nhằm tạo nguồn thu để đầu tư cho các hoạt động thể thao.
Mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế đa phương và song phương trên cơ sở bình đẳng học tập, giúp đỡ lẫn nhau để phát triển sự nghiệp TDTT. Nghiên cứu, phổ biến các môn thể thao dân tộc ra nước ngoài để quảng bá giá trị văn hoá, hình ảnh đất nước con người Việt Nam với thế giới; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đăng cai tổ chức Đại hội Thể thao châu Á tại Việt Nam.
Thanh Cẩm