  | 
        
        
            | Thứ trưởng thường trực Nguyễn Danh Thái trong một chuyến đi kiểm tra thực tế (Ảnh: TT) | 
        
    
Kiểm tra, đánh  giá phát triển  thể dục, thể  thao quần  chúng là một trong những  nội  dung quản lý nhà nước về  thể dục, thể  thao có ý nghĩa đặc biệt  quan trọng  giúp những nhà quản  lý hoạch định chính sách có cơ  sở  khoa học thực  tiễn để xây dựng  quy hoạch,  kế hoạch, ban hành  các cơ  chế chính sách, định hướng đầu tư  phát triển  thể thao cho mọi  người  theo đúng mục  tiêu xây dựng  phát triển sự  nghiệp  Thể dục, thể  thao của Đảng là góp phần  nâng cao sức  khoẻ, tầm vóc, thể  lực  và đời sống  văn  hoá tinh thần cho nhân dân.
Để kết  quả  kiểm tra, đánh  giá đúng  thực chất  có độ  tin cậy cao đòi  hỏi  trước hết  phải  tổng hợp  phân tích các chỉ  số chỉ báo sự  phát triển  thể dục, thể  thao quần chúng trong thời  gian gần nhất  nhằm  xác định những  chỉ  số nào là tiêu biểu,  cơ  bản phản  ánh bản  chất của sự  phát triển  hay nói cách khác là nhằm  xác định  rõ nội dung kiểm  tra, đánh  giá. Kết quả  kiểm  tra, đánh giá có đảm bảo được tính khách quan trung thực đến  mức nào còn phụ  thuộc  rất lớn vào phương pháp tiến  hành kiểm tra đánh  giá. Việc  chuẩn bị và tiến  hành các bước  kiểm tra, đánh  giá có ý nghĩa  không kém phần quan trọng ảnh  hưởng tới  kết  quả kiểm tra, đánh  giá. 
 Xác định nội dung kiểm  tra, đánh giá
Về phát triển  thể  dục, thể  thao quần  chúng, Luật thể  dục,  thể thao quy định tại điều 11 trách nhiệm  của  chính quyền, tổ  chức  chính trị, tổ  chức  chính trị- xã hội,  tổ  chức xã hội-  nghề  nghiệp về thể  thao, cơ  quan nhà nước, tổ  chức,  doanh nghiệp phải  làm những  việc gì để phát triển  thể dục, thể  thao quần  chúng. Như thế  khi kiểm  tra, đánh giá phát triển  thể  dục, thể  thao quần  chúng trước hết  chúng ta phải đặt ra tiêu chí cho từng  nhiệm  vụ của mỗi  chủ  thể và kiểm tra theo tiêu chí đó  xem mức độ đạt được đến đâu. 
Ví dụ,  Luật định: "Uỷ  ban nhân dân các cấp  có trách nhiệm xây dựng  các công trình thể  thao công cộng, đảm bảo  nhân lực về  chuyên môn, nghiệp  vụ thể dục, thể  thao; xây dựng mạng  lưới  cộng tác viên thể  dục,  thể thao cơ  sở đáp ứng yêu cầu  hoạt động thể  dục,  thể thao của  cộng đồng dân cư." Vậy  thì, hàng năm chúng ta phải  kiểm  tra, đánh giá xem bao nhiêu  Uỷ  ban nhân dân cấp xã, cấp  huyện,  cấp tỉnh xây dựng được  bao nhiêu công trình thể  thao công cộng  theo tiêu chí đã được quy định  tại các văn  bản  quy phạm pháp luật  như  thông tư liên tịch  giữa  Bộ  trưởng  Bộ Văn hoá- thông  tin và Bộ  trưởng, Chủ  nhiệm  Uỷ ban Thể  dục  thể thao số  22/2007/TTLT/BVHTT_UBTDTT ngày 24 tháng 7 năm  2007; bao nhiêu cán bộ TDTT được đào  tạo, bồi  dưỡng, sử dụng. Mạng  lưới  cộng tác viên thể  dục,  thể thao cơ  sở đã được xây dựng  theo các tiêu chí tại  thông tư số  05/2007/TT-UBTDTT ngày 20/7/2007 đạt được đến đâu. 
Hay như tại  khoản  3 Điều 11 quy định: “Mặt  trận Tổ quốc  Việt  nam và các tổ chức  thành viên của  Mặt trận  có trách nhiệm  vận động hội  viên tham gia hoạt động thể  dục,thể thao nhằm  rèn luyện  thân thể, nâng cao sức  khoẻ;  phối hợp với  cơ  quan quản lý nhà nước về  thể dục thể  thao tổ  chức biểu  diễn  và thi đấu thể  thao quần  chúng.” Khi kiểm tra, đánh  giá phát triển  thể dục, thể  thao quần  chúng, cơ quan quản  lý nhà nước  phải tính toán đưa ra những  tiêu chí về "vận động  hội viên" là hoạt động  gì cụ thể  có phải  là số hội viên được phổ  biến kiến  thức,  hướng dẫn  tập  luyện hay là số  hội  viên qua các hình thức phổ  biến  tuyên truyền nay đang  luyện tập  thường xuyên hay đánh  giá bằng  cả hai chỉ  số  này, để có cơ  sở  kiểm tra, đánh  giá. Rồi  các tiêu chí về số  cuộc  thi đấu, biểu  diễn  thể thao với  số  hội viên tham gia v.v.
Khoản 4 Điều  11 cũng chỉ  rất rõ về  trách nhiệm của  tổ  chức xã hội-  nghề  nghiệp về thể  thao là vận động mọi  người  tham gia phát triển phong trào thể  dục,  thể thao, phổ  biến  kiến thức,  hướng  dẫn tập luyện  thể  dục, thể  thao phù hợp  với sở thích, lứa  tuổi,  giới tính, nghề  nghiệp;  bồi dưỡng chuyên môn  nghiệp  vụ cho cộng  tác viên thể  dục, thể  thao cơ  sở. Cách thức  vận động, hướng dẫn  luyện tập, bồi  dưỡng  chuyên môn nghiệp vụ đều  phải lượng hoá bằng  các tiêu chí về  thời lượng tuyên truyền,  tài liệu  xuất bản, số  người  tham gia v.v.  
Khoản 5 điều  11 về  trách nhiệm của  các cơ  quan nhà nước, tổ  chức  và doanh nghiệp đối với  phát triển thể  dục,  thể thao quần  chúng là tạo điều kiện để  công chức, viên chức,  người  lao động trong đơn vị  mình tham gia hoạt động thể  dục, thể  thao. Những  nhiệm vụ này cũng  phải được chuẩn  hoá để đánh giá được thế  nào là tạo điều  kiện, phải chăng  là tổ chức  các hoạt động ngay tại  cơ  quan hay là cấp kinh phí thường xuyên cho mỗi  thành viên đơn vị  hoặc  là chỉ tạo điều kiện  về  thời gian mỗi  ngày.
Để thực  hiện được các nội  dung phát triển  thể dục, thể  thao quần  chúng, Luật Thể  dục,  thể thao quy định rõ các giải  pháp (biện pháp) như  phát động  phong trào thể dục,  thể  thao quần chúng (điều  12); chính sách phát triển  thể dục, thể  thao quần  chúng trong các đối tượng người  khuyết tật (điều  14); thể  dục, thể  thao cho người  cao tuổi (điều15);  luật  quy định phát triển  các loại  hình thể dục,  thể  thao quần chúng phòng bệnh,  chữa  bệnh (điều  16), các môn thể  thao dân tộc (điều  17), thể  thao giải trí (điều  18), thể  thao quốc phòng (điều  19). Riêng đối  tượng là học  sinh, sinh viên có mục  2 chương II về  Giáo dục  thể chất và thể  thao trong nhà trường  và đối tượng là cán bộ  chiến sỹ trong lực  lượng  vũ trang có mục  3 chương  II về Thể  dục,  thể thao trong lực  lượng  vũ trang 
Đánh giá phát triển  thể  dục, thể  thao quần  chúng không chỉ là đánh  giá trong phạm  vi một phong trào thể  dục,  thể thao quần  chúng. Bởi, theo điều  12 quy định  là phong trào thể dục,  thể  thao quần chúng được nhà nước  phát động nhằm động  viên khuyến khích mọi  người  tham gia tập luyện  thể  dục, biểu  diễn  và thi đấu thể  thao, hình thành thói quen rèn luyện thân thể  cho mọi  người. Như  thế  người có thói quen rèn luyện  thân thể  là người tập  luyện  thường xuyên, tiêu chí thế  nào là người  tập luyện  thường  xuyên và thế nào là gia đình  thể  thao thì luật giao cho Uỷ  ban Thể  dục thể  thao nay là Bộ  Văn hoá, Thể  thao và Du lịch  quy định: "Phong trào thể  dục,  thể thao quần  chúng được đánh giá bằng  chỉ  tiêu số người tập  luyện thường xuyên và gia  đình thể thao. Việc  tổ  chức đánh giá phong  trào thể  dục thể  thao quần  chúng tại địa phương được thực  hiện  theo hướng dẫn  của  Uỷ ban Thể  dục  thể thao.”   
Cơ quan quản  lý nhà nước  về thể dục, thể  thao ở  trung ương trước kia là Uỷ  ban Thể dục  thể  thao nay là Bộ Văn  hoá, Thể  thao và Du lịch có trách nhiệm  theo quy định  của pháp luật  phải ban hành tiêu chí cụ  thể  cho các nhiệm vụ  phát triển  thể dục, thể  thao quần  chúng để xây dựng  quy hoạch,  kế hoạch phát triển  thể  dục, thể  thao quần  chúng và làm cơ sở  tiến  hành kiểm tra, đánh  giá theo thẩm  quyền. 
Vũ  Trọng Lợi