Thực trạng dinh dưỡng và hoạt động thể lực của học sinh qua nghiên cứu của đề án mô hình điểm

Nâng cao hiểu biết và thực hiện dinh dưỡng hợp lý, tăng cường hoạt động thể lực phù hợp đối với học sinh mầm non và tiểu học nhằm nâng cao sức khỏe, phát triển tầm vóc thông qua Mô hình điểm “Bữa ăn học đường bảo đảm dinh dưỡng hợp lý kết hợp tăng cường hoạt động thể lực cho trẻ em, học sinh và sinh viên Việt Nam” là mục tiêu mà Bộ Giáo dục &Đào tạo phối hợp với Tập đoàn TH True Milk mong muốn đạt được qua chương trình này. Sau 1 năm triển khai, năm học 2021 dự án Mô hình điểm đã đem lại những kết quả tích cực. Mô hình điểm được triển khai thí điểm tại 10 tỉnh, thành phố với 5 vùng sinh thái (vùng thành thị, nông thôn miền núi phía Bắc, duyên hải miền Trung, Nam Bộ) gồm: TP.Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh TP.Hải Phòng và các tỉnh Sơn La, Thái Bình, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Lâm Đồng

Thực trạng dinh dưỡng và hoạt động thể lực của học sinh qua nghiên cứu của đề án mô hình điểm
Tăng cường các hoạt động thể lực cho trẻ nhằm nâng cao tầm vóc
là một trong những nhiệm vụ của đề án (Ảnh: NG)
Nâng cao hiểu biết và thực hiện dinh dưỡng hợp lý, tăng cường hoạt động thể lực phù hợp đối với học sinh mầm non và tiểu học nhằm nâng cao sức khỏe, phát triển tầm vóc thông qua Mô hình điểm “Bữa ăn học đường bảo đảm dinh dưỡng hợp lý kết hợp tăng cường hoạt động thể lực cho trẻ em, học sinh và sinh viên Việt Nam” là mục tiêu mà Bộ Giáo dục &Đào tạo phối hợp với Tập đoàn TH True Milk mong muốn đạt được qua chương trình này. Sau 1 năm triển khai, năm học 2021 dự án Mô hình điểm đã đem lại những kết quả tích cực.

Mô hình điểm được triển khai thí điểm tại 10 tỉnh, thành phố với 5 vùng sinh thái (vùng thành thị, nông thôn miền núi phía Bắc, duyên hải miền Trung, Nam Bộ) gồm: TP.Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh TP.Hải Phòng và các tỉnh Sơn La, Thái Bình, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Lâm Đồng và An Giang. Tổng số đã có 3.616 học sinh mầm non (trường can thiệp: 1.982 học sinh; trường đối chứng: 2.054 học sinh) và 4.676 học sinh trung học (trường can thiệp: 2.622 học sinh; trường đối chứng: 2.054 HS) được áp dụng thí điểm.

Kết quả điều tra về dinh dưỡng của học sinh mầm non ở thời điểm trước khi triển khai Mô hình điểm cho thấy gánh nặng kép về dinh dưỡng của học sinh mầm non của trường đối chứng và trường can thiệp của 5 tỉnh thành có xu hướng nghiêng nhiều về thừa cân béo (TCBP) phì hơn suy dinh dưỡng (SDD).

Tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân, SDD thấp còi, SDD gầy còm của 10 trường đều rất thấp (tỷ lệ SDD nhẹ cân 2,8%, tỷ lệ SDD gầy còm là 1,8%, tỷ lệ SDD thấp còi là 3,4%), dưới 5% và thấp hơn tỷ lệ SDD của trẻ em khu vực nông thôn (tỷ lệ SDD thấp còi là 14,9%) và khu vực TP (12,4%) trong tổng điều tra dinh dưỡng 2019-2020.

Tỷ lệ TCBP rất cao chiếm 16,62% đặc biệt khu vực thành phố: Trường mầm non Sơn Ca, Tam kỳ có tỷ lệ TCBP cao nhất chiếm 28,0% tiếp đến là trường mầm non Họa Mi 3: 26,43%; trường mầm non Duyên Hải có tỷ lệ TCBP thấp nhất chiếm 5,84%.

Ở mỗi độ tuổi và giới tính thể lực của học sinh ở mỗi tỉnh khác nhau có những tố chất thể lực chiếm ưu thế khác nhau. Nhìn chung các tố chất thể lực của học sinh mầm non tại các tỉnh/thành phố như sau: Học sinh Hà Nội có ưu thế về sức nhanh, sức mạnh chân và sự khéo léo cần tiếp tục phát huy thế mạnh này. Bên cạnh đó cần bổ sung các bài tập/ trò chơi để phát triển độ dẻo và sức mạnh tay và sức mạnh bền.

Học sinh Tp.Hồ Chí Minh có ưu thế về sức nhanh, sức mạnh chân và sự khéo léo cần tiếp tục phát huy thế mạnh này. Bên cạnh đó cần bổ sung các bài tập/ trò chơi để phát triển độ dẻo, sức bền và sức mạnh. Học sinh Hải Phòng không có ưu thế rõ rệt về thể lực nên cần bổ sung các bài tập/ trò chơi để phát triển toàn diện các tố chất thể lực.

Học sinh Quảng Nam có ưu thế về sức mạnh tay và độ dẻo cần tiếp tục phát huy thế mạnh này. Bên cạnh đó cần bổ sung các bài tập/ trò chơi để phát triển sức nhanh, sức bền và sự khéo léo.

Tóm lại: thực trạng thể lực của học sinh mầm non ở từng vùng miền khác có những thế mạnh khác nhau như học sinh ở thành phố (Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh, Hải Phòng) có ưu thế về sức nhanh, khéo léo các trường vùng nông thôn (Thái Bình, Quảng Nam) có ưu thế về sức nhanh, sức bề và độ dẻo.

Với thực đơn phong phú, đa dạng các loại thực phẩm đáp ứng được nhu cầu năng lượng khẩu phần, vi chất dinh dưỡng theo khuyến nghị và đặc biệt là kết hợp với các trò chơi/ bài tập vui nhộn, hấp dẫn lôi cuốn trẻ tham gia đã tăng cường được hoạt động thể lực cho học sinh mầm non. Do đó, tình trạng dinh dưỡng và thể lực của học sinh mầm non ở các trường can thiệp đã được cải thiện đáng kể ở nhiều mặt. Tỷ lệ của nhóm học sinh mầm non ở các trường đối chứng và các trường can thiệp ở cả thời điểm trước và sau can thiệp đều rất thấp, dưới 5%. Ở mức tỷ lệ SDD dưới 5% thì được khuyến cáo là nên duy trì tỷ lệ này.

Tỷ lệ TCBP chung của nhóm can thiệp và nhóm đối chứng lần lượt là 18,55% và 14,69%, sau can thiệp tỷ lệ thừa cân béo phì của nhóm can thiệp đã giảm được 2,68% (đặc biệt tỷ lệ béo phì đã giảm được 1,55%) trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm đối chứng tăng nhẹ (0,23). Tuy tỷ lệ TCBP ở nhóm đối chứng tăng không nhiều nhưng cho thấy nếu không có sự can thiệp về bữa ăn học đường, giáo dục dinh dưỡng và GDTC và sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường thì nguy cơ TCBP sẽ tăng dần hàng năm và sẽ gây ra những hệ lụy xấu về sức khỏe cho trẻ em lứa tuổi mầm non, ảnh hướng tới sự phát triển thể lực, trí lực sau này.

Kết quả điều tra ban đầu cho thấy gánh nặng kép về dinh dưỡng của học sinh tiểu học của trường đối chứng và trường can thiệp của 10 tỉnh có xu hướng nghiêng nhiều hơn rất nhiều về TCBP hơn SDD. Tỷ lệ SDD nhẹ cân, SDD thấp còi, SDD gầy còm của cả 10 trường đều rất thấp (tỷ lệ SDD nhẹ cân 4,4%, tỷ lệ SDD gầy còm là 3,6%, tỷ lệ SDD thấp còi là 3,2%, chỉ riêng trường Tô Múa tỷ lệ SDD khoảng trên dưới 10% nhưng cũng bắt đầu xuất hiện TCBP) và thấp hơn tỷ lệ SDD nhẹ cân (12,2%) của trẻ em tưt 5-10 tuổi và tỷ lệ SDD thấp còi của trẻ em 5-19 tuổi (14,3%) trong Tổng điều tra dinh dưỡng năm 2019 – 2020.

Tỷ lệ TCBP của học sinh tiểu học rất cao, tỷ lệ chung của 10 trường trên 5 tỉnh thành là 34,5%. Trong đó, khu vực thành phố (Lâm Đồng, An Giang, Thừa Thiên Huế) có tỷ lệ TCBP là 45,69% (gấp hơn 2,4 lần tỷ lệ TCBP của trẻ 5-19 tuổi là 19% trong Tổng điều tra dinh dưỡng 2019 – 2020). Trong đó tỷ lệ TCBP của trường tiểu học Lê Lợi và trung học Hùng Vương là cao nhất của khu vực thành phố, lần lượt là 50,9% và 58,6%. Khu vực ngoại ô (Nghệ An) có tỷ lệ TCBP là 22,1% cao hơn tỷ lệ TCBP của trẻ em 5-19 tuổi là 19% trong Tổng điều tra dinh dưỡng năm 2019 – 2020. Khu vực miền núi phía bắc (Sơn La) có tỷ lệ TCBP là 13,28%. Vấn đề thừa cân béo phì của học sinh tiểu học cả khu vực miền núi, ngoại ô và thành thị là điều rất đáng lo ngại.
Thông qua các tài liệu tập huấn, hoạt động truyền thông, tập huấn của Mô hình điểm, giáo viên đã lồng ghép tích hợp vào các hoạt động giáo dục trong các giờ học chính và ngoại khóa TDTT và rèn luyện TDTT, để truyền đạt kiến thức cho học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên cũng thường xuyên trao đổi cho phụ huynh các kiến thức về vai trò, tác dụng, lợi ích của TDTT đến sức khẻo, tầm vóc của học sinh và các phương pháp rèn luyện TDTT cơ bản, qua đó phụ huynh hiểu và phối hợp cùng nhà trường trong việc tăng cường hoạt động thể lực.

Kết quả khảo sát cho thấy 95,4% phụ huynh học sinh đã phối hợp với nhà trường trong việc tăng cường hoạt động thể lực cho trẻ (ít nhất 60 phút theo khuyến cáo của WHO).

Kết quả sau can thiệp số lượng học sinh tiểu học yêu thích TDTT (97,0%), tham gia tập luyện TDTT thường xuyên (96,4%) đều cao hơn trước can thiệp đạt trên 80% học sinh đạt ít nhất 60 phút hoạt động thể lực mỗi ngày theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới. Bên cạnh đó học sinh cũng nhận thức đúng đắn về mục đích của tham gia tập luyện TDTT để rèn luyện, nâng cao sức khỏe (96, 0%).

Qua số liệu điều tra ban đầu đã cho ta thấy bức tranh về tỷ lệ TCBP của học sinh mầm non và tiểu học ở khu vực thành thị cao hơn gấp nhiều lần so với tỷ lệ SDD và ngay cả ở khu vực nông thôn tỷ lệ TCBP cũng rất đáng lo ngại, một số nghiên cứu cho thấy nếu trẻ bị TCBP ở lứa tuổi vị thanh niên. Hiện nay, đa phần nhận thức của nhà trường và xã hội về vấn đề TCBP chưa đúng nhất là về nguy cơ trẻ em béo phì có thể mắc bệnh không lây nhiễm như cholesterol máu cao, đái tháo đường, huyết áp cao … Do vậy cần được truyền thông rộng rãi nhằm giúp cho gia đình, nhà trường và xã hội hiểu TCBP ở trẻ em lứa tuổi mầm non và tiểu học là rất nguy hiểm. Đồng thời cần có giải pháp về chế độ dinh dưỡng hợp lý kết hợp tăng cường hoạt động thể lực cho trẻ. Cần cá thể hóa và có giải pháp cụ thể và đồng bộ từ gia đình và nhà trường (chế độ ăn uống và chế độ vận động) cho từng nhóm như trẻ bị SDD hoặc thừa cân, béo phì./.

Ngô Giang