Nghị định số 115 ra đời đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng về đổi mới tư duy quản lý đối với hoạt động của các tổ chức KH&CN công lập.
Theo đó các tổ chức KH&CN được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức, biên chế, tài chính, tài sản; khuyến khích gắn kết giữa hoạt động nghiên cứu với triển khai kết quả KH&CN vào thực tiễn, khuyến khích tăng thu và được giữ lại nguồn thu để có thêm nguồn tài chính bổ sung thu nhập cho cán bộ nghiên cứu và bổ sung kinh phí hoạt động KH&CN,.. .Để thực hiện tinh thần đổi mới nêu trên, Nghị định số 115 yêu cầu các tổ chức KH&CN công lập được sắp xếp lại, phân loại và chuyển đổi mô hình hoạt động thành 2 nhóm chính, đó là:
Tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược, chính sách, nghiên cứu xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật chuyên ngành, phục vụ quản lý nhà nước: các tổ chức này phải xây dựng Đề án kiện toàn tổ chức và hoạt động trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để được nhà nước tiếp tục cấp kinh phí hoạt động thường xuyên.
Tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ đã tự bảo đảm kinh phí hoạt động thường xuyên, được tổ chức và hoạt động theo một trong hai hình thức: (a) Tổ chức khoa học và công nghệ tự trang trải kinh phí hoạt động thường xuyên (gọi tắt là tổ chức tự trang trải kinh phí); (b) Doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
 |
| Các đơn vị khoa học - công nghệ công lập từng bước thực hiện hiệu quả Nghị định 115 (Ảnh: PV) |
Đến thời điểm hiện nay, theo số liệu thống kê của Bộ KH&CN, trong tổng số 642 tổ chức KH&CN công lập, đã có:
- 193 tổ chức thuộc loại hình tổ chức KH&CN hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, chiến lược, chính sách thực hiện chuyển đổi (chiếm tỉ lệ 30%)
- 295 tổ chức chuyển sang loại hình tự trang trải kinh phí (chiếm tỉ lệ 46%)
- 154 tổ chức đang xây dựng hoặc đang trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt Đề án thực hiện cơ chế tự chủ (chiếm tỉ lệ 24%).
Số liệu trên cho thấy việc thực hiện Nghị định số 115 đã có kết quả tích cực là 76% tổ chức KH&CN đã hoàn thành chuyển đổi và hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Tuy vậy so với mục tiêu Chính phủ đặt ra khi ban hành Nghị định số 115 là kể từ sau ngày 31/12/2009 sẽ hoàn thành việc chuyển đổi tất cả các tổ chức KH&CN công lập sang phương thức tự chủ theo Nghị định số 115, đến nay (sau 5 năm so với mục tiêu đặt ra), vẫn còn 154 tổ chức KH&CN (chiếm tỉ lệ 24%) chưa hoàn thành việc chuyển đổi, thì đây là một hạn chế trong tổ chức thực hiện cần được phân tích, đánh giá làm rõ nguyên nhân và có giải pháp khắc phục.
Để Nghị định số 115 đi vào cuộc sống, căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ KH&CN và các cơ quan liên quan ban hành một hệ thống chính sách, chế độ tài chính tương đối đồng bộ, theo hướng nâng cao quyền tự chủ, tạo sự chủ động cho các tổ chức KH&CN trong việc sử dụng nguồn lực tài chính, lao động, cơ sở vật chất để thực hiện nhiệm vụ được giao, thu hút thêm các nguồn lực ngoài NSNN, tạo điều kiện nâng cao số lượng và chất lượng dịch vụ KH&CN cung ứng, đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới.
Các chính sách, chế độ tài chính được ban hành có phạm vi rộng từ việc hướng dẫn quy trình xây dựng dự toán, phân bổ, quản lý kinh phí tới các chính sách ưu đãi đặc thù về tạm ứng, thanh quyết toán, khoán kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN và các quy định khác liên quan đến quản lý tài sản, ưu đãi về thuế. Nhìn chung các quy định về tài chính cơ bản đã bao quát được các hoạt động tài chính của các tổ chức KH&CN công lập và tạo điều kiện cho tổ chức KH&CN công lập chuyển đổi thành các tổ chức KH&CN tự chủ hoặc các doanh nghiệp KH&CN theo tinh thần đổi mới tại Nghị định số 115.
Đặc biệt, để khuyến khích các tổ chức KH&CN thực hiện chuyển đổi, đã quy định đối với các đơn vị chuyển đổi sang loại hình tổ chức KH&CN tự trang trải kinh phí hoạt động được hưởng các ưu đãi về thuế như đối với doanh nghiệp mới thành lập và một số ưu đãi khác; được ưu tiên xét hỗ trợ kinh phí đầu tư phát triển để đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, được hỗ trợ kính phí chuyển đổi bằng 50% kinh phí hoạt động thường xuyên của năm trước liền kề và chuyển vào Quỹ phát triển sự nghiệp của đơn vị...
Ban hành TTLT số 44/2007/TTLT/BTC- BKHCN ngày 7/5/2007 hướng dẫn định mức xây dựng và phân bổ dự toán kinh phí đối với các đề tài, dự án KH&CN có sử dụng NSNN. Nội dung TTLT số 44/2007 đã điều chỉnh tăng định mức phân bổ NSNN đã quy định từ năm 2001 cho sát với thực tế và bổ sung quy định rõ một số nội dung chi đối với đề tài, dự án KH&CN; hướng dẫn cụ thể về quy trình lập, thẩm tra và phê duyệt kinh phí thực hiện đề tài, dự án KH&CN.
Cùng với đó, Bộ tài chính cũng đã ban hành chính sách tạo cơ chế thông thoáng trong tạm ứng và kiểm soát chi kinh phí KH&CN: Theo quy định hiện hành về việc tạm ứng kinh phí NSNN cho các dự án nói chung (dự án đầu tư phát triển, KH&CN) thì mức tạm ứng kinh phí tối đa là 30% tổng dự toán kinh phí được duyệt. Tuy vậy, để tạo điều kiện đối với các tổ chức KH&CN được giao nhiệm vụ chủ trì thực hiện, các nhiệm vụ KH&CN thuộc các Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư hướng dẫn tài chính quy định các tổ chức này được tạm ứng kinh phí đợt đầu tiên tới 100% mức dự toán kinh phí trong năm (nhưng không vượt quá 50% tổng dự toán của nhiệm vụ).
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đã thực hiện phân cấp cho Bộ KH&CN cao hơn so với các quy định chung về quản lý kinh phí. Theo quy định chung thi KBNN thực hiện kiểm soát chi đối với các khoản chi sử dụng NSNN. Nhưng riêng đối với các đề tài KH&CN, Kho bạc Nhà nước đã ban hành công văn số 1582/KBNN-KHTH ngày 30/7/2007 gửi KBNN các tỉnh, thành phổ trực thuộc TW về việc kiểm soát chi đối với các nhiệm vụ KH&CN trọng điểm, theo đó quy định “Tổ chức chủ trì thực hiện đề tài, dự án tự chịu trách nhiệm về quyết định chỉ tiêu của mình và chịu sự kiểm tra, kiểm soát của Văn phòng Chương trình Trọng điểm (Bộ KH&CN) về tình hình sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện các đề tài, dự án. KBNN nơi giao dịch không thực hiện kiểm soát chi đối với các khoản chi từ tài khoản tiền gửi của các tố chức chủ trì thực hiện đề tài, dự án…
Tuy vậy, trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện cho thấy mặc dù các tổ chức KH&CN đã thực hiện chuyển đổi nhưng việc triển khai vẫn còn chậm, chưa thực hiện đầy đủ các quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, số lượng tổ chức KH&CN chuyển sang loại hình doanh nghiệp KH&CN và tự trang trải kinh phí còn chưa nhiều và chưa có tính điển hình cao; đa số các tổ chức KH&CN công lập vẫn chủ yếu phụ thuộc vào nguồn kinh phí hoạt động từ NSNN, việc huy động các nguồn kinh phí ngoài NSNN chưa được nhiều, việc thương mại hóa sản phẩm KH&CN còn hạn chế...
An An