Công trình tập trung cụ thể vào cách kiểm soát và sử dụng Hộ chiếu Sinh học VĐV ảnh hưởng đến tỷ lệ Phát hiện Phân tích Bất lợi đối với Thuốc chủ vận thụ thể Erythropoietin. Kết luận cho thấy phần lớn Phát hiện Phân tích Bất lợi đối với Thuốc chủ vận thụ thể Erythropoietin xảy ra ở mẫu đầu tiên được thu thập cho một VĐV và tỷ lệ Phát hiện Phân tích Bất lợi tiếp tục giảm khi các VĐV được xét nghiệm thêm. Tài liệu cũng cho thấy phần lớn Phát hiện Phân tích Bất lợi đối với Thuốc chủ vận thụ thể Erythropoietin xảy ra ở các mẫu được thu thập trong quá trình thi đấu.
Cơ quan Chống Doping Thế giới nhấn mạnh tác dụng răn đe của các xét nghiệm chống doping (ảnh: insidethegames)
Phó giám đốc chương trình Hộ chiếu Sinh học VĐV tại Cơ quan Chống Doping Thế giới và là đồng tác giả của nghiên cứu Reid Aikin cho biết: "Đây là một phát hiện đáng ngạc nhiên. Chúng tôi thường nghĩ đến tình huống một VĐV sử dụng Thuốc chủ vận thụ thể Erythropoietin trước khi thi đấu, nhưng sau một khoảng thời gian đủ dài để rửa trôi trước khi thi đấu để tránh xét nghiệm dương tính. Tuy nhiên, một VĐV chưa từng được xét nghiệm trước đó có khả năng bị phát hiện thấp hơn nhiều so với VĐV được xét nghiệm thường xuyên, vì vậy những giả định tương tự không áp dụng được".
Nghiên cứu cũng chứng minh tác động tích cực đến việc sử dụng Hộ chiếu Sinh học VĐV để chỉ định xét nghiệm Thuốc chủ vận thụ thể Erythropoietin, với tỷ lệ Phát hiện Phân tích Bất lợi Thuốc chủ vận thụ thể Erythropoietin tăng gấp sáu lần đối với các VĐV sức bền được đưa vào Hộ chiếu Sinh học VĐV so với những người không được đưa vào.
Nhà phân tích Hộ chiếu Sinh học VĐV tại Cơ quan chống doping và là đồng tác giả của nghiên cứu Tristan Equey chia sẻ: "Những phát hiện này cho thấy việc được xét nghiệm, ngay cả một lần, cũng có tác dụng ngăn chặn việc sử dụng doping. Và đối với những VĐV vẫn chọn sử dụng doping, Hộ chiếu Sinh học VĐV là một công cụ hữu ích để đánh dấu những trường hợp này và nhắm mục tiêu vào các phân tích Thuốc chủ vận thụ thể Erythropoietin ".
Vì phân tích Thuốc chủ vận thụ thể Erythropoietin tốn kém và mất thời gian nên nó không được áp dụng một cách có hệ thống trên tất cả các mẫu. Thay vào đó, quyết định thực hiện phân tích Thuốc chủ vận thụ thể Erythropoietin được thúc đẩy bởi chiến lược xét nghiệm tổng thể của tổ chức chống doping, dựa trên đánh giá rủi ro của nhóm vận động viên của họ và Hộ chiếu Sinh học VĐV.
Giám đốc cấp cao Hộ chiếu Sinh học VĐV và là đồng tác giả của nghiên cứu Norbert Baume, chỉ ra rằng: "Loại công việc này cung cấp một góc nhìn mới cho các tổ chức chống doping để phân tích dữ liệu chống doping của riêng họ và có thể điều chỉnh cách họ phân phối các phân tích Thuốc chủ vận thụ thể Erythropoietin. Trong khi những phát hiện của chúng tôi tập trung vào doping Thuốc chủ vận thụ thể Erythropoietin, một cách tiếp cận tương tự có thể được áp dụng cho các chất khác như steroid đồng hóa androgenic".
Phó Giám đốc Reid Aikin bày tỏ hy vọng những phát hiện này sẽ chuyển hướng câu chuyện khỏi việc sử dụng tỷ lệ dương tính ngày càng tăng làm thước đo thành công trong chống doping, vì mục tiêu cuối cùng là giảm tỷ lệ bằng cách ngăn chặn các VĐV sử dụng doping ngay từ đầu. Đối với các VĐV không bị ngăn cản bởi xét nghiệm, chúng tôi sẽ tiếp tục phát triển các cách tiếp cận như Hộ chiếu Sinh học VĐV để phát hiện doping mạnh mẽ".
Nguyên tắc cơ bản của Hộ chiếu Sinh học VĐV là kiểm soát các biến số sinh học được chọn theo thời gian, gián tiếp tiết lộ tác động của doping, thay vì cố gắng phát hiện chất hoặc phương pháp doping.
Các tổ chức chống doping có thể tích hợp Hộ chiếu Sinh học VĐV vào khuôn khổ rộng hơn của một chương trình chống doping vững chắc để xác định các VĐV cần được chú ý nhiều hơn thông qua việc giải thích thông minh và kịp thời. Hộ chiếu Sinh học VĐV cung cấp thông tin có giá trị có thể được sử dụng để chỉ đạo các hoạt động chống doping, chẳng hạn như thử nghiệm hoặc điều tra có chọn lọc, hiệu quả hơn.
A.T biên dịch