Giải pháp phát triển kinh tế thể thao ở Việt Nam

Kinh tế thể thao Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức phát triển mới. Như phân tích của Tổng Bí thư Tô Lâm mới đây, đã đến lúc đất nước ta bước vào một kỷ nguyên vươn mình, với những chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại. Vậy nên, nền thể thao nước nhà cũng cần nắm bắt xu thế để phát triển.

Những căn cứ pháp lý quan trọng

Kết luận số 70-KL/TW ngày 31/01/2024 của Bộ chính trị về phát triển thể dục, thể thao trong giai đoạn mới nêu rõ: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp thể dục, thể thao trong giai đoạn mới. Chú trọng cơ chế, chính sách đầu tư, phát triển thể chế, cơ sở hạ tầng; thể thao chuyên nghiệp, thể thao thành tích cao, thể thao quần chúng, giáo dục thể chất và thể thao trường học; khung khổ pháp lý về kinh tế thể thao, quyền sở hữu, chuyển nhượng, khai thác bản quyền và tài trợ, thúc đẩy xã hội hóa.”; “Phát triển thị trường thể thao, thúc đẩy hợp tác công – tư, khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở thể thao, tham gia tổ chức thi đấu, đào tạo vận động viên, huấn luyện viên, trọng tài và cung cấp các dịch vụ thể dục, thể thao”.

Kinh tế thể thao phát triển sẽ góp phần thúc đẩy thể thao Việt Nam phát triển

Tại Diễn đàn Kinh tế Thể thao Việt Nam 2024, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Đạo Cương yêu cầu tất cả các nhà quản lý, cơ quan tư vấn về TDTT khẩn trương có kế hoạch cụ thể, thiết thực để hiện thực hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Điều này sẽ giúp Việt Nam thúc đẩy nền kinh tế thể thao quốc gia, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và có thêm nguồn lực để phát triển giáo dục thể chất và rèn luyện thể chất. Đồng thời cũng được cụ thể hóa trong Chiến lược phát triển TDTT đến năm 2030, tầm nhìn 2045 với các mục tiêu cụ thể liên quan đến kinh tế thể thao.

Để phát triển kinh tế thể thao của Việt Nam thì định vị quy mô công nghiệp và quy mô thị trường có vai trò quan trọng để xác định tầm nhìn và các giải pháp tương lai. Tuy nhiên, trong tình hình kinh tế vĩ mô hiện nay ở Việt Nam, hiện có nhiều ý kiến, tranh luận về cách định vị nền kinh tế thể thao, cách phát triển và cải cách hệ thống quản lý. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi cố gắng khái quát, đưa ra các nhận định và tổ chức các vấn đề liên quan từ góc độ kinh tế học, hoàn thiện khung khổ pháp lý và đề xuất giải pháp về kinh tế thể thao ở Việt Nam, góp phần phát triển sự nghiệp TDTT phục vụ kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Cơ sở lý luận và thực tiễn

Đặc điểm của sản phẩm và kinh tế thể thao

Chủ đề của kinh tế thể thao là vấn đề lựa chọn các phương pháp hiệu quả nhất của việc tiêu thụ tài nguyên (yếu tố sản xuất – yếu tố đầu vào) để mở rộng thị trường sản phẩm dịch vụ thể dục, thể thao - cách tiếp cận gần nhất đến phạm vi và chất lượng đối với các nhu cầu của người tiêu dùng. Dịch vụ TDTT là sản phẩm cơ bản của ngành TDTT nhằm đáp ứng việc duy trì và phục hồi sức khỏe, phát triển thể chất và tinh thần cho mỗi cá nhân, nâng cao trình độ nghề nghiệp.

Các giải pháp của vấn đề này cho thấy việc phải sử dụng hoàn toàn mới các công cụ kinh tế, phát triển các mô hình tổ chức sản xuất, sử dụng các phương pháp tâm lý - xã hội để thúc đẩy sự phát triển. Mặc dù đối tượng và phạm vi của ngành kinh tế thể thao có những điểm đặc biệt, song cần thiết phải kết nối được hai phần chính của lý thuyết kinh tế là kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô.

Rõ ràng, sự lựa chọn của các quyết định tối ưu ở cấp vi mô không chỉ phụ thuộc vào khả năng của các tổ chức thể thao cụ thể, mà còn dựa trên cả các thông số kinh tế vĩ mô. Vì vậy, các nhà sản xuất của các dịch vụ/hàng hóa trong lĩnh vực thể thao cần phải phân tích toàn diện các yếu tố ảnh hưởng đến việc cung cấp và nhu cầu sản phẩm của người tiêu dùng. Ví dụ, dự báo nhu cầu, nó phải được giả định là một vị trí quan trọng trong hệ thống cấp bậc của nhu cầu của các gia đình có mong muốn dành nhiều thời gian giải trí của họ cho việc tham gia vào câu lạc bộ thể thao, tham dự sự kiện thể thao… Tức là phản ánh mức độ phân tích kinh tế vi mô. Nhưng đồng thời các biến số của kinh tế vĩ mô như: tăng trưởng kinh tế, GDP, phúc lợi xã hội... có thể thay đổi xu hướng chung các yếu tố kinh tế vi mô theo xu hướng đi xuống hoặc đi lên. Ngoài tác động của nhu cầu và số vốn trên quy mô sản xuất có thể có một tác động tích cực hay tiêu cực của các yếu tố kinh tế vĩ mô như chính sách thuế, tiền tệ và chính sách tiền tệ, lạm phát...

Đây thực sự là vấn đề cấp thiết trong nền kinh tế thị trường để tìm kiếm hình thức hợp tác giữa Nhà nước, vùng kinh tế, thậm chí rộng hơn là ở cấp khu vực và địa phương, với các doanh nghiệp để thu hút vốn đầu tư trong lĩnh vực kinh tế thể thao. Như chúng ta đã biết, hấp dẫn đối với doanh nghiệp là lợi nhuận và hoàn vốn nhanh. Dịch vụ trong thị trường thể thao luôn sẵn có nhu cầu, ngoại trừ các hình thức hỗ trợ người khuyết tật, người già, trẻ em là không có sẵn. Phát triển hệ thống các nhượng bộ kinh tế (giảm thuế, hỗ trợ tín dụng, các phương pháp khác về trợ giá một phần cho nhà sản xuất...) có thể đóng góp vào sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực này, với các điều khoản không gây phương hại đến lợi ích của nhà sản xuất. Giá cho ngành công nghiệp dịch vụ hiện tại này sẽ được cung cấp cho những người có thu nhập thấp.

Nghiên cứu kinh tế, ước toán và dự báo thực hiện trong kinh tế thể thao được dựa trên các lý thuyết kinh tế nói chung để làm cơ sở phương pháp luận, sử dụng rộng rãi quản lý dữ liệu, pháp luật, xã hội học và khoa học khác.

Dưới góc độ quản lý điều tiết nền kinh tế. Nhà nước cần thiết phải tham gia thị trường thể thao vì mục đích cộng đồng, kinh tế và chính trị. Căn bản nhà nước tác động lên thể thao thông qua 4 hướng sau:

Thứ nhất, nhà nước xây dựng/bảo trì các công trình/địa điểm thể thao, tìm kiếm/huấn luyện/đào tạo/bồi dưỡng nhân tài thể thao, cổ vũ/thúc đẩy phát triển phong trào rèn luyện thể thao, cũng như cung cấp tài chính cho các tổ chức làm thể thao, các giải thi đấu thể thao hay những đợt vận động đăng cai tổ chức các giải thể thao lớn.

Thứ hai, nhà nước là đối tượng chịu trách nhiệm phát triển thể thao thông qua việc đào tạo chính quy tại trường học hoặc tại các trung tâm đào tạo thể thao.

Thứ ba, nhà nước là tổ chức có tiếng nói sâu rộng nhất trong vấn đề truyền bá thông tin lợi ích thể thao, các vấn đề liên quan đến sức khỏe, các chương trình thể thao vì cộng đồng hay các chương trình nâng tầm hiểu biết cho cộng đồng về lối sống lành mạnh.

Thứ tư, nhà nước đưa ra các điều lệ tổ chức, ngăn chặn các hành vi xấu như doping, bán độ...

Tính chất tự nhiên của một thị trường là cạnh tranh, tuy nhiên không giống các thị trường tiêu dùng thuần thúy, trên thị trường thể thao, nhà nước thường can thiệp để giảm tính cạnh tranh tuyệt đối. Ví dụ đưa ra mức lương trần hay giới hạn số lượng vận động viên ngoại quốc ở các câu lạc bộ để môi trường cạnh tranh công bằng hơn, hấp dẫn hơn, đặc biệt là trong các giải thi đấu bóng đá, nhà nước đưa ra các điều luật về chuyển nhượng cầu thủ để hạn chế các câu lạc bộ có nguồn tài chính dồi dào thống trị giải đấu cũng như tạo cơ hội cho các câu lạc bộ khác.

Nhà nước thường không tham gia trực tiếp vào các hoạt động marketing thể thao, nhà nước thúc đẩy thể thao phát triển bằng cách đầu tư cho hoạt động truyền bá lợi ích sức khỏe mà thể thao mang lại.

Thị trường thể dục, thể thao.

Các thị trường trong ngành thể thao thường được phân loại dựa trên sản phẩm, dịch vụ và các yếu tố liên quan khác. Song dù phân chia theo cách nào thì những thị trường này đều liên kết chặt chẽ và cùng đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế thể thao, tạo nên giá trị kinh tế lớn và cơ hội việc làm phong phú. Tham khảo ở một số nước có nền thể thao phát triển cho thấy các thị trường thể thao bao gồm:

(1) Thị trường sản phẩm và dịch vụ thể thao: Hàng hóa thể thao (Dụng cụ và thiết bị thể thao; Trang phục thể thao; Đồ lưu niệm); Dịch vụ thể dục, thể thao (Dịch vụ huấn luyện và đào tạo; Dịch vụ tổ chức sự kiện; Dịch vụ y sinh học thể thao).

(2) Thị trường bản quyền phát sóng và truyền thông thể thao: Quyền phát sóng; Quảng cáo và tài trợ; Truyền thông số.

(3) Thị trường sự kiện và giải đấu thể thao: Tổ chức sự kiện thể thao chuyên nghiệp; Thể thao cộng đồng; Du lịch thể thao.

(4) Thị trường nhân lực thể thao: Vận động viên; Huấn luyện viên và chuyên gia; Tình nguyện viên và nhân sự tổ chức.

(5) Thị trường tài chính và đầu tư thể thao: Quỹ đầu tư thể thao; Cổ phần hóa và kinh doanh câu lạc bộ; Cá cược thể thao hợp pháp.

(6) Thị trường giáo dục và nghiên cứu thể thao: Giáo dục thể thao; Nghiên cứu và phát triển.

(7) Thị trường công nghệ và đổi mới trong thể thao: Công nghệ thiết bị; Trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn; Trò chơi điện tử thể thao (eSports).

(8) Thị trường tài trợ và thương hiệu thể thao:Tài trợ; Nhượng quyền thương mại.          

Thực tiễn kinh nghiệm xây dựng khuôn khổ pháp lý về kinh tế thể thao 

Bài học từ Trung Quốc.

Khuôn khổ pháp lý về kinh tế thể thao ở Trung Quốc đã được phát triển một cách bài bản và chặt chẽ, với các chính sách, quy định cụ thể nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành thể thao, cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa và xã hội. Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống pháp lý vững mạnh để hỗ trợ các hoạt động liên quan đến thể thao chuyên nghiệp, thể thao quần chúng và thể thao giải trí. Một số yếu tố chính trong khung pháp lý của Trung Quốc:

Trong đó Luật Thể thao (1995) là nền tảng cho hệ thống pháp lý về thể thao, bao gồm các quy định cơ bản về quản lý các hoạt động thể thao, trách nhiệm của các cơ quan quản lý, cũng như vai trò của các tổ chức xã hội và tư nhân trong phát triển thể thao. Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát, quản lý và phát triển các hoạt động thể thao, từ cấp quốc gia đến địa phương.

Chính phủ Trung Quốc cũng đã công bố các kế hoạch phát triển thể thao dài hạn, với các mục tiêu cụ thể về nâng cao sức khỏe cộng đồng, phát triển thể thao thành tích cao và mở rộng cơ sở vật chất thể thao. Trung Quốc có tham vọng trở thành một cường quốc thể thao số 1 toàn cầu vào năm 2035, với các giải pháp nhằm phát triển toàn diện thể thao quần chúng, thể thao học đường và thể thao chuyên nghiệp.

Việc xã hội hóa và thị trường hóa thể thao: Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện các chính sách khuyến khích xã hội hóa và thị trường hóa thể thao, nhằm thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân và quốc tế. Các chính sách này bao gồm: (i) Thu hút đầu tư tư nhân: Hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia vào phát triển cơ sở hạ tầng thể thao, tổ chức sự kiện, và sản xuất các sản phẩm liên quan đến thể thao; (ii) Khuyến khích các doanh nghiệp thể thao: Chính phủ Trung Quốc đã tạo ra nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thể thao, bao gồm giảm thuế và hỗ trợ tài chính; (iii) Quy định về tài trợ và quyền phát sóng: Trung Quốc có các quy định rõ ràng về quyền phát sóng và quảng cáo trong thể thao, nhằm tạo điều kiện cho các thương hiệu tham gia và thúc đẩy nền kinh tế thể thao.

Bên cạnh đó, Trung Quốc đã tiến hành cải cách sâu rộng trong lĩnh vực thể thao chuyên nghiệp, đặc biệt là bóng đá và bóng rổ, với việc thúc đẩy các câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp, cổ phần hóa các câu lạc bộ và phát triển các giải đấu thể thao mang tầm quốc gia và quốc tế.

Về chính sách phát triển thể thao quần chúng: Chính phủ Trung Quốc khuyến khích mạnh mẽ phát triển thể thao quần chúng, với mục tiêu tăng cường sức khỏe cho toàn dân và xây dựng một xã hội khỏe mạnh. Các chiến lược này bao gồm việc xây dựng các cơ sở vật chất thể thao tại các khu vực nông thôn và thành thị, tổ chức các sự kiện thể thao quần chúng, và thúc đẩy thể thao học đường.

Quy định về đặt cược thể thao: Trung Quốc có chính sách nghiêm ngặt về hoạt động đặt cược thể thao. Mặc dù việc cá cược trực tiếp bị cấm, chính phủ cho phép các hình thức đặt cược thể thao hợp pháp thông qua các kênh chính thức như China Sports Lottery. Điều này giúp đảm bảo tính minh bạch và ngăn chặn các hoạt động gian lận, cá độ trái phép…

Có thể khẳng định, khung pháp lý về kinh tế thể thao ở Trung Quốc là một hệ thống đa dạng và toàn diện, bao gồm cả thể thao quần chúng và thể thao chuyên nghiệp, với mục tiêu thúc đẩy phát triển thể thao như một ngành kinh tế quan trọng. Chính phủ Trung Quốc đã và đang nỗ lực cải cách, mở rộng thị trường thể thao, xã hội hóa các hoạt động thể thao, đồng thời thu hút đầu tư trong và ngoài nước để tạo điều kiện cho nền thể thao phát triển mạnh mẽ trong tương lai.

Khuôn khổ pháp lý về kinh tế thể thao ở Việt Nam

Khung pháp lý về kinh tế thể thao ở Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của lĩnh vực này. Hiện tại, các văn bản pháp luật và chính sách liên quan bao gồm:

Luật Thể dục, thể thao: Đây là văn bản pháp lý nền tảng, quy định về tổ chức và quản lý các hoạt động thể dục, thể thao tại Việt Nam. Luật này đã được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tiễn và xu hướng phát triển của thể thao trong nước.

Chiến lược phát triển Thể dục, Thể thao Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045: Ngày 15/10/2024, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược này theo Quyết định số 1189/QĐ-TTg. Chiến lược đặt mục tiêu xây dựng nền thể dục, thể thao phát triển bền vững, chuyên nghiệp, với mọi người dân được tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ thể dục, thể thao; nâng cao thành tích thể thao Việt Nam, tiến tới ngang tầm các nước có nền thể thao phát triển tại châu Á.

Quy định về đặt cược thể thao: Chiến lược phát triển Thể dục, Thể thao Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng đề cập đến việc hoàn thiện khung pháp lý để triển khai hoạt động đặt cược thể thao theo Luật Thể dục, Thể thao và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, trên cơ sở tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, phù hợp với tình hình, điều kiện Việt Nam.

Các văn bản hướng dẫn và quy định liên quan: Ngoài các văn bản trên, còn có nhiều Nghị định, Thông tư hướng dẫn cụ thể về quản lý, tổ chức các hoạt động thể thao, tài trợ, quảng cáo trong thể thao và các quy định về sở hữu trí tuệ, bản quyền trong lĩnh vực thể thao.

- Từ các phân tích trên cho thấy việc hoàn thiện khung khổ pháp lý về kinh tế thể thao cần đảm bảo có sự kết hợp hài hòa giữa quản lý nhà nước (bàn tay hữu hình) và thị trường (bàn tay vô hình), tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế trong lĩnh vực thể thao, với sự tham gia lớn của các tổ chức tư nhân và cộng đồng.

Một số tồn tại và đề xuất giải pháp

Tồn tại, điểm nghẽn trong gia tăng cung cầu và tăng trưởng kinh tế thể thao.

Để thúc đẩy sự phát triển bền vững của kinh tế thể thao, một số vấn đề cần được tập trung tháo gỡ:

(1) Chưa hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý và cơ chế quản lý.

Thiếu quy định cụ thể về kinh tế thể thao: Hiện tại, Việt Nam chưa có hệ thống pháp lý đồng bộ, chi tiết để điều chỉnh các hoạt động liên quan đến kinh tế thể thao như quản lý các sự kiện thể thao, tài trợ, quyền phát sóng và bản quyền thể thao.

Chưa có khung pháp lý rõ ràng cho thể thao chuyên nghiệp: Các quy định pháp lý liên quan đến thể thao chuyên nghiệp còn thiếu hoặc chưa rõ ràng, gây khó khăn cho việc phát triển các môn thể thao chuyên nghiệp, đặc biệt là trong việc thu hút đầu tư nước ngoài và quản lý tài chính trong các liên đoàn, câu lạc bộ thể thao.

(2) Chính sách thu hút đầu tư và xã hội hóa chưa đạt hiệu quả cao.

Hạn chế trong việc thu hút đầu tư tư nhân: Chính sách xã hội hóa thể thao chưa thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư tư nhân do thiếu các ưu đãi và hỗ trợ phù hợp. Doanh nghiệp đầu tư vào thể thao mong muốn được hưởng những lợi ích tương xứng về thuế, quyền sử dụng đất và hỗ trợ cơ sở hạ tầng.

Thiếu cơ chế hợp tác công – tư: Các mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân (PPP) trong phát triển cơ sở hạ tầng thể thao và tổ chức các sự kiện thể thao chưa được triển khai rộng rãi và cần có chính sách thúc đẩy hợp lý.

(3) Hạn chế trong việc phát triển thể thao cộng đồng và phong trào TDTT.

Thiếu chính sách khuyến khích thể thao quần chúng: Các chính sách hỗ trợ thể thao cộng đồng chưa đủ mạnh để thúc đẩy phong trào thể dục thể thao quần chúng. Điều này gây ảnh hưởng đến việc phát triển nền tảng thể thao từ cơ sở, hạn chế nguồn lực cho thể thao thành tích cao.

Chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan: Sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc xây dựng cơ chế, chính sách và quản lý các hoạt động thể dục thể thao chưa được thực hiện tốt, dẫn đến nhiều bất cập trong việc phát triển thể thao cộng đồng.

(4) Chính sách tài chính và nguồn lực phát triển thể thao còn bất cập.

Chính sách thuế chưa phù hợp: Các ưu đãi thuế cho hoạt động kinh doanh liên quan đến thể thao chưa đủ hấp dẫn, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất thiết bị thể thao, kinh doanh câu lạc bộ thể thao và các dịch vụ thể dục, thể thao.

Thiếu ngân sách và đầu tư cho thể thao: Ngân sách nhà nước dành cho thể thao, đặc biệt là thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp vẫn còn hạn chế. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, đào tạo huấn luyện viên, vận động viên, cũng như tổ chức các sự kiện thể thao tầm cỡ quốc tế.

(5) Chưa phát huy được tiềm năng thị trường thể thao quốc tế.

Chính sách xuất khẩu dịch vụ thể dục, thể thao chưa được chú trọng: Việt Nam chưa có chiến lược phát triển ngành công nghiệp thể thao theo hướng hội nhập quốc tế. Việc thu hút du khách thể thao quốc tế, tổ chức các giải đấu mang tầm quốc tế và xuất khẩu các dịch vụ, sản phẩm thể thao còn gặp nhiều trở ngại do thiếu chính sách hỗ trợ cụ thể.

Thiếu quy định bảo vệ quyền lợi của vận động viên: Hiện nay, quyền lợi của các vận động viên, đặc biệt là trong việc chuyển nhượng và hợp đồng thương mại quốc tế, chưa được bảo vệ tốt. Điều này gây khó khăn trong việc nâng cao thu nhập và tạo động lực cho vận động viên thi đấu chuyên nghiệp.

(6) Thiếu chiến lược phát triển kinh tế thể thao bền vững.

Chưa có quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế thể thao: Việt Nam thiếu một chiến lược tổng thể, dài hạn về phát triển kinh tế thể thao, bao gồm từ phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực cho đến xây dựng các thương hiệu thể thao quốc gia.

Chưa chú trọng đến thể thao kết hợp du lịch: Các chính sách khai thác tiềm năng thể thao kết hợp với du lịch, như tổ chức các giải đấu golf, bóng đá, điền kinh quy mô quốc tế để thu hút du khách, chưa được chú trọng phát triển.

(7) Hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực thể thao.

Thiếu các chương trình đào tạo chuyên sâu: Các chương trình đào tạo huấn luyện viên, chuyên gia quản lý thể thao và vận động viên chưa được đầu tư đúng mức và chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Chính sách đãi ngộ chưa hợp lý: Chính sách lương thưởng và phúc lợi cho các vận động viên, huấn luyện viên và cán bộ làm việc trong ngành thể thao còn hạn chế, chưa đủ sức cạnh tranh với các nước trong khu vực.

(8) Chính sách phát triển thể thao trong hệ thống giáo dục.

Chưa có cơ chế rõ ràng để thúc đẩy thể thao học đường: Việc lồng ghép thể thao vào chương trình giáo dục còn nhiều hạn chế, chưa tạo động lực cho học sinh, sinh viên tham gia và phát triển năng khiếu thể thao.

Thiếu sự phối hợp giữa nhà trường và các câu lạc bộ thể thao: Chính sách hợp tác giữa các cơ sở giáo dục và các câu lạc bộ thể thao để phát hiện, bồi dưỡng tài năng trẻ còn yếu, chưa hiệu quả.

Từ đó, chúng tôi xin được đề xuất các giải pháp để tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thể thao Việt Nam:

(1) Rà soát, đổi mới về quản lý kinh tế thể thao ở Việt Nam. Trong đó nhấn mạnh:

Đổi mới thể chế có liên quan đến quản lý kinh tế thể thao nhằm tạo đột phá, khơi thông các điểm nghẽn để tạo các động lực cho tăng trưởng kinh tế thể thao.

Các cấp chính quyền, Cục TDTT cần có bộ phận/đơn vị chuyên trách thực hiện các chức năng, nhiệm vụ về xây dựng luật pháp, chính sách, tiêu chuẩn (công trình, hàng hóa, dịch vụ thể thao…), thủ tục, quy định… để quản lý thị trường thể thao. Đặc biệt là khắc phục những khiếm khuyết, phân cực giàu nghèo, nhóm yếu thế trong xã hội, mặt trái, hành vi thiển cận mà nền kinh tế thị trường có thể gây ra để thị trường thể thao hoạt động lành mạnh.

Phân cấp, điều chỉnh, tinh gọn hệ thống quản lý thị trường thể thao để duy trì trật tự trên thị trường thể thao theo định hướng, pháp luật, chính sách của Đảng, Nhà nước. Chẳng hạn, đối với phát triển thể dục, thể thao quần chúng thì các liên đoàn, hiệp hội thể thao thực hiện quản lý theo phân cấp, chuyên môn và Chính phủ thực hiện kiểm soát vĩ mô.

(2) Khuyến khích, ưu đãi trong phát triển thị trường thể thao để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp, cơ sở thể thao. Tiến tới thị trường hóa, thương mại cao các khía cạnh của thể thao.

(3) Thực hiện công cụ “Kế hoạch hoá” trong phát triển mạng lưới công trình thể thao đáp ứng nhu cầu xã hội về tập luyện TDTT.

(4) Thúc đẩy công tác đào tạo nhân tài để hình thành cơ chế cung ứng nhân lực chất lượng cao. Đặc biệt là nhân lực, VĐV, đội tuyển và sự kiện thể thao cấp khu vực, châu lục.

Kết luận

Kinh tế là cơ sở để phát triển thể thao, sự phát triển của thể thao phụ thuộc vào phát triển kinh tế. Kinh tế thể thao là sự kết hợp giữa thể thao - giải trí, thương mại và kinh doanh, tạo ra một “ngành công nghiệp” lớn với sự tham gia của các tổ chức, doanh nghiệp và Chính phủ trong việc phát triển và khai thác giá trị từ thể thao. Mặc dù đã có những bước tiến trong việc xây dựng khung pháp lý cho kinh tế thể thao, Việt Nam vẫn đang tiếp tục hoàn thiện các quy định để tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển.

Phát triển kinh tế thể thao Việt Nam cần có sự kết hợp giữa công nghiệp thể thao và chủ trương của Đảng, Nhà nước trong giai đoạn chuyển đổi từ nên kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong đó cần chú trọng đến việc đẩy mạnh việc: thị trường hóa, thương mại cao và tầm ảnh hưởng tiến đến phạm vi toàn cầu của tất cả các khía cạnh trong lĩnh vực TDTT.

PGS.TS Ngô Trang Hưng – Trường Đại học TDTT Bắc Ninh

Ảnh trong bài
  • Giải pháp phát triển kinh tế thể thao ở Việt Nam