Luật TDTT ra đời không chỉ thể chế hoá được quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác thể dục, thể thao. Phát triển mạnh mẽ phong trào thể dục, thể thao rộng khắp nhằm nâng cao sức khoẻ mọi người, góp phần phát triển toàn diện nhân cách, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nâng cao thành tích thể thao để phục vụ đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân và tham gia các hoạt động thể thao quốc tế nhằm tăng cường tình hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phù hợp với thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, Luật TDTT được coi là hành lang pháp lý nhằm Đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động thể dục, thể thao, coi thể dục, thể thao là sự nghiệp của toàn xã hội, khuyến khích và tạo điều kiện để mọi người dân được tham gia, đóng góp cho hoạt động thể dục, thể thao và hưởng thụ các thành quả do thể dục thể thao mang lại; Kế thừa các quy định của Pháp lệnh thể dục, thể thao, khắc phục những bất cập trong hoạt động thể dục, thể thao và phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam; bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
Để triển khai thực hiện Luật TDTT ở địa phương đạt hiệu quả cao,Tỉnh chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến thực hiện Luật TDTT và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Trọng tâm là tuyên truyền những nội dung cơ bản của Luật, để cán bộ, viên chức, trọng tài, huấn luyện viên, vận động viên và các tầng lớp nhân dân nắm vững, thấy rõ tầm quan trọng của Luật TDTT đối với sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; từ đó tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức về vai trò, vị trí, tầm quan trọng và ý nghĩa tích cực của hoạt động TDTT từ đó nâng cao ý thức, trách nhiệm của mọi công dân và tổ chức trong thực hiện Luật.
Ngay sau khi Luật TDTT có hiệu lực (1/7/2007), UBND tỉnh đã tổ chức triển khai quán triệt tới lãnh đạo các Sở, ngành, đoàn thể tỉnh, UBND các huyện, thị. Trên cơ sở đó, các ngành và địa phương triển khai, quán triệt cho toàn thể cán bộ, công chức viên chức; đồng thời tổ chức thông tin tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân bằng nhiều hình thức phong phú, như: hàng năm đều tổ chức hội nghị triển khai, quán triệt pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật đến các đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức, trọng tài, huấn luyện viên, vận động viên trong toàn ngành; cán bộ phụ trách TDTT ở các ban, ngành, đoàn thể tỉnh; các tổ chức liên đoàn, Hội thể thao; cơ quan thông tấn báo chí, truyền hình; lãnh đạo UBND và cán bộ văn hóa- xã hội của cacs xã, phường, thị trấn...
Ngoài ra, luật TDTT và các nghị định, Thông tư quy định, hướng dẫn chi tiết thi hành Luật TD,TT như: Nghị định số 112/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thể dục, thể thao; Thông tư 05/2007/TT-UBTDTT ngày 20 tháng 7 năm 2007 của Ủy ban Thể dục, thể thao, hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 112/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thể dục, thể thao.. Các văn bản được lồng ghép triển khai trong các hội nghị cán bộ công chức, hội nghị tổng kết ngành, thông qua tổ chức các giải thi đấu TDTT, các lớp đào tạo, bồi dưỡng công tác quản lý nhà nước, công tác chuyên môn nghiệp vụ do Sở phối hợp tổ chức hàng năm; đồng thời phối hợp với các cơ quan truyền thông tăng cường công tác thông tin tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, tăng thời lượng các chuyên trang, chuyên mục trên báo chí, phát thanh, truyền hình tuyên truyền luật TDTT đến người dân.
Qua triển khai, quán triệt, tuyên truyền, thực hiện Luật TDTT nhận thức của các cấp, các ngành cùng toàn thể cán bộ, đảng viên và đại bộ phận quần chúng nhân dân trên địa bàn tỉnh đã được nâng lên một bước. Các cấp, các ngành đã quan tâm chỉ đạo phát triển thể dục thể thao ở từng cơ quan đơn vị, địa phương với mục tiêu tăng cường sức khỏe và không ngừng nâng cao mức hưởng thụ đời sống văn hóa, tinh thần của cán bộ, công nhân viên chức, người lao động, lực lượng vũ trang, học sinh và nhân dân, hướng các hoạt động theo khuôn khổ của Luật TDTT quy định. Luật Thể dục, thể thao đã tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy hoạt động thể dục, thể thao quần chúng phát triển; các cá nhân, cơ quan, tổ chức đã ý thức được trách nhiệm và quyền hạn của mình trong việc tự tổ chức tập luyện, thi đấu thể dục thể thao và tham gia phát triển phong trào thể dục thể thao quần chúng. Số người tham gia ủng hộ, giúp đỡ, đóng góp cho hoạt động thể dục thể thao quần chúng theo chủ trương xã hội hóa ngày càng nhiều.
Tính đến hết năm 2016, toàn tỉnh Bắc Kạn đã có 28% dân số tập luyện thể dục thể thao thường xuyên, 13% số hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình thể thao. Số trường học thực hiện tốt chương trình giáo dục thể chất chính khoá đạt 100%. Tập luyện TDTT trong quần chúng nhân dân ngày càng phát triển rộng rãi cả bề rộng lẫn chiều sâu, đã tạo thành phong trào rộng khắp và có sức lan tỏa mạnh mẽ ở khắp mọi nơi từ thành thị đến nông thôn và cả ở vùng sâu, vùng xa. Điều đó góp phần tạo nên đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, giữ gìn an ninh trật tự và tằng cường khối đại đoàn kết giữa các dân tộc anh em trên địa bàn tỉnh.Các môn thể thao quần chúng thường xuyên được duy trì hoạt động chủ yếu là: Bóng đá, bóng chuyền hơi, cầu lông, bóng bàn, cờ tướng và môn thể thao đi bộ…
Cùng với đó, các môn thể thao dân tộc như: Tung còn, kéo co, bắn nỏ, đẩy gậy... và các trò chơi dân gian khác luôn được quan tâm, bảo tồn và phát huy, hoạt động chủ yếu là vào những dịp lễ, tết cổ truyền của dân tộc. Công tác giáo dục thể chất trong trường học được đẩy mạnh, 100% số trường phổ thông thực hiện đầy đủ chương trình giáo dục thể chất nội khóa theo quy định. Ngành Giáo dục và Đào tạo đã duy trì và đẩy mạnh phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”.
Hàng năm, Công an tỉnh, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp tổ chức kiểm tra chiến sĩ khỏe, tổ chức các hội thi, hội thao… cho lực lượng cán bộ, chiến sĩ trên địa bàn toàn tỉnh. Do đó, công tác thể dục thể thao trong lực lượng vũ trang từng bước đi vào ổn định, vừa thực hiện nhiệm vụ huấn luyện thể lực phục vụ sẵn sàng chiến đấu, vừa góp phần vào thành tích thể thao chung của tỉnh Bắc Kạn.
Không chỉ tạo điều kiện phát triển phong trào TDTT, thực hiện Luật TD,TT Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật bao gồm các quy định về lĩnh vực thể thao thành tích cao, đào tạo, bồi dưỡng vận động viên, các chế độ chính sách huấn luyện viên, vận động viên, chế độ dinh dưỡng, chế độ khen thưởng phù hợp với điều kiện của tỉnh. Bên cạnh đó, nhờ thực hiện các quy định của Luật Thể dục, thể thao và các văn bản hướng dẫn thi hành, công tác quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao đã được tăng cường và bước đầu đi vào nền nếp. Cơ sở vật chất đã được tỉnh từng bước quan tâm, đầu tư xây dựng, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo vận động viên, cải thiện thành tích thi đấu thể thao.
Luật Thể dục, thể thao năm 2007 cơ bản đã bao quát được hầu hết các lĩnh vực hoạt động thể dục thể thao, tuy nhiên qua thực tế triển khai tại tỉnh, một số nội dung chưa được quy định cụ thể, chưa điều chỉnh hết các đối tượng trong xã hội, như:
Chỉ tiêu đánh giá phong trào thể dục thể thao quần chúng gồm chỉ tiêu về người tập luyện thể thao thường xuyên và gia đình thể thao là chưa đầy đủ, chưa bao quát và phản ánh hết sự phát triển thể dục thể thao quần chúng. Nội dung thể dục, thể thao trong trường học cần bổ sung vấn đề về đội ngũ giáo viên thể dục trong trường học, đặc biệt là cấp tiểu học; mô hình thiết chế thể thao trong trường học… để khuyến khích người học tham gia tập luyện thể dục thể thao nâng cao sức khoẻ, tạo tiền đề cho việc phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu thể thao; thiếu quy định về chuẩn giáo viên, giảng viên thể dục thể thao; chuẩn cơ sở vật chất thể dục thể thao trong nhà trường. Bên cạnh đó, nội dung thể dục thể thao trong các lực vũ trang, trong thực tế còn một bộ phận của lực lượng vũ trang là dân quân tự vệ cũng cần có các quy định cụ thể để điều chỉnh cho phù hợp.
Đối với lĩnh vực thể thao thành tích cao: Chưa có các văn bản dưới Luật như Nghị định, Thông tư quy định chi tiết về quyền, chế độ đãi ngộ thường xuyên của vận động viên khi đạt thành tích tại các giải thế giới, Châu Á, Đông Nam Á, toàn quốc cụ thể với địa phương, ngành để thực hiện đồng bộ. Các chế độ chính sách ưu tiên, hướng nghiệp cho vận động viên cần được bổ sung, góp phần tạo điều kiện tốt nhất cho vận động viên yên tâm tập luyện, phấn đấu và cống hiến. Cần có chính sách, giải pháp cụ thể hỗ trợ tạo việc làm khi vận động viên hết tuổi thi đấu cho các cấp đội tuyển của quốc gia, của tỉnh để triển khai, thực hiện.
Tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, ngành tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và triển khai sâu rộng các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thể dục, thể thao, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục thể thao đến năm 2020, Chiến lược phát triển thể dục thể thao Việt Nam đến năm 2020, Quy hoạch phát triển thể dục thể thao tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Ủy ban nhân dân tỉnh đã kiến nghị với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nghiên cứu tham mưu cho Chính phủ và phối hợp với các bộ ngành liên quan ban hành các Nghị định, Thông tư quy định chi tiết về một số lĩnh vực, đó là: Chế độ đãi ngộ thường xuyên của vận động viên khi đạt thành tích tại các giải Thế giới, Châu Á, khu vực Đông Nam Á và các giải toàn quốc. Chế độ chính sách ưu tiên, tạo việc làm khi vận động viên hết tuổi thi đấu cho các cấp đội tuyển của quốc gia, của tỉnh, thành, ngành.
VD