Công tác tuyển chọn, đào tạo VĐV năng khiếu, VĐV trẻ, VĐV đội tuyển quốc gia có nhiều đổi mới

Bộ VHTTDL vừa có Báo cáo một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV gửi các đại biểu Quốc hội, trong đó nêu rõ kết quả đạt được cũng như những khó khăn, hạn chế, đồng thời đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhiều giải pháp mang tính đột phá.

Những kết quả đã đạt được và những khó khăn, hạn chế

Theo báo cáo, thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, trong giai đoạn vừa qua, công tác tuyển chọn, đào tạo VĐV năng khiếu, VĐV trẻ, VĐV đội tuyển quốc gia có nhiều đổi mới. Ngành TDTT đã tập trung phát triển các môn thể thao có thế mạnh và các môn thể thao có trong chương trình Olympic, ASIAD. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng tài năng thể thao và nhân lực thể thao thành tích cao đến năm 2035” (Quyết định số 223/QĐ-TTg ngày 22 tháng 2 năm 2019) (Đề án 233).

Báo cáo cũng nêu rõ, kinh phí đầu tư cho việc nâng cấp, mở rộng các cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, tập huấn VĐV thể thao và tổ chức thi đấu tiếp tục được Quốc hội, Chính phủ quan tâm. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã, đang triển khai các Dự án cải tạo, nâng cấp 04 Trung tâm Huấn luyện thể thao quốc gia; cải tạo nâng cấp Bệnh viện Thể thao Việt Nam; hoàn thiện hệ thống thiết bị chuyên ngành Trung tâm Doping và Y học Thể thao, dự kiến sẽ hoàn thành, đưa vào sử dụng trong các năm 2025, 2026.

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng

Công tác tuyển chọn, đào tạo VĐV năng khiếu, VĐV trẻ đã được đổi mới. Công tác giáo dục văn hóa, đạo đức nghề nghiệp cho VĐV và cán bộ thể dục, thể thao được chú trọng. Công tác đào tạo, tập huấn nghiệp vụ nâng cao trình độ cho các cán bộ quản lý, huấn luyện viên, trọng tài thể thao được quan tâm. Thông qua đó đã hình thành một lực lượng cán bộ quản lý, huấn luyện viên thể thao có kiến thức chuyên môn tốt, trực tiếp tham gia công tác huấn luyện tại các Trung tâm Huấn luyện thể thao quốc gia, trung tâm huấn luyện thể thao tỉnh, thành, ngành và các câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp.

Nhìn chung, công tác tuyển chọn, đào tạo VĐV thể thao trong thời gian qua đã từng bước đáp ứng yêu cầu đặt ra, góp phần nâng cao thành tích của thể thao Việt Nam, thể hiện qua số lượng, cơ cấu huy chương đã đạt được tại các kỳ Đại hội thể thao. Việt Nam đã giành được các huy chương vàng tại Olympic và Paralympic, luôn nằm trong tốp 3 nước dẫn đầu các kỳ SEA Games, 2 lần liên tiếp dẫn đầu bảng tổng sắp tại SEA Games 31, 32. Các môn thể thao Olympic như: Điền kinh, Thể dục, Bơi lội, Bóng đá, Bắn súng, Cử tạ, Đua thuyền, Đấu kiếm được đầu tư và đã giành được nhiều thành tích đáng ghi nhận. Bóng đá Việt Nam có sự tiến bộ ở cả đấu trường khu vực lẫn châu lục.

Hiện trên cả nước có khoảng 2500 VĐV quốc gia (trong đó VĐV trẻ: 1.100; VĐV đội tuyển: 1.400) và vận động viên của các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an: khoảng 22.000 (trong đó: VĐV năng khiếu: 8.500; VĐV trẻ: 6.200; VĐV cấp tỉnh/thành/ngành: 7.300, trong đó ngành Công an 650 VĐV; Quân đội 700 VĐV.

Cùng với đó, toàn ngành đẩy mạnh hợp tác quốc tế và nghiên cứu khoa học trong đào tạo và phát triển tài năng thể thao thành tích cao; phát huy vai trò của các Liên đoàn, Hiệp hội, các tổ chức xã hội về thể dục, thể thao trong việc tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao. Tính đến tháng 5/2024, Thể thao Việt Nam đã thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý thể thao, tổ chức thể thao của hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Ủy ban Olympic Việt Nam là thành viên chính thức của Ủy ban Olympic quốc tế (IOC), Hội đồng Olympic châu Á (OCA) và Liên đoàn Thể thao Đông Nam Á. 40 Liên đoàn, Hiệp hội thể thao quốc gia là thành viên của các Liên đoàn Thể thao khu vực, châu lục và thế giới.

Việt Nam đã ký kết thỏa thuận hợp tác (MOU) trên các lĩnh vực: đào tạo VĐV, HLV, đào tạo cán bộ nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, y học, trao đổi chuyên gia, huấn luyện viên với các quốc gia có nền thể thao phát triển như: Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Hungary, Singapore, Nga…

Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác tuyển chọn, đào tạo VĐV trong thời gian qua còn gặp một số tồn tại, hạn chế như: Đầu tư cho công tác đào tạo tài năng thể thao, tuy có tăng hằng năm, song còn thấp so với nhu cầu; chưa đảm bảo nguồn lực đầu tư đúng mức theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW, dẫn đến sự hẫng hụt lực lượng VĐV kế cận trong các đội tuyển quốc gia;

Hệ thống các giải thi đấu thể thao trẻ trên phạm vi cả nước còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Tổ chức và hoạt động của một số Liên đoàn, Hiệp hội Thể thao Quốc gia chưa thích nghi được với xu thế quốc tế, thiếu tính chủ động vì chưa có khả năng tự chủ về tài chính, do đó sự đóng góp vào công tác tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao chưa tương xứng với kỳ vọng; chưa thu hút và phát huy được tiềm năng to lớn của các nguồn lực xã hội tham gia công tác phát hiện năng khiếu, tuyển chọn đào tạo và bồi dưỡng tài năng thể thao trẻ.

Tập trung phân nhóm, đầu tư trọng điểm cho các môn, nội dung thi đấu và lực lượng VĐV có khả năng giành huy chương ASIAD, Olympic

Để giải quyết những vấn đề còn tồn tại, theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng một trong những nhiệm vụ và giải pháp trong thời gian tới là trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành Chiến lược phát triển thể dục thể thao Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, theo đó xác định tập trung đầu tư cho các môn, nội dung trọng điểm tham dự các kỳ ASIAD (ASIAD 20 năm 2026 tại Nhật, ASIAD 21 năm 2030 tại Qatar, ASIAD 22 năm 2034 tại Ả Rập Xê Út) và Olympic (Olympic năm 2024 tại Pháp, Olympic năm 2028 tại Mỹ, Olympic năm 2032 tại Úc) và các kỳ SEA Games. Ngoài ra, nghiên cứu xây dựng Đề án phát triển các môn thể thao trọng điểm trong giai đoạn đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045 để trình Thủ tướng Chính phủ, trong đó xác định mục tiêu, lộ trình, đối tượng, phương thức và giải pháp đầu tư cho từng nhóm môn và nội dung thể thao trọng điểm, ứng với từng kỳ Olympic và ASIAD. Đồng thời xác định địa bàn đào tạo để có hướng phân cấp, cộng đồng trách nhiệm giữa các cơ quan liên quan trong công tác đào tạo lực lượng VĐV trọng điểm.

Tập trung phân nhóm, đầu tư trọng điểm cho các môn, nội dung thi đấu và lực lượng VĐV có khả năng giành huy chương ASIAD, Olympic. Đối với nhóm các môn đầu tư, chuẩn bị cho Olympic, ASIAD, sẽ tập trung ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại trong đào tạo, huấn luyện; bố trí huấn luyện viên, chuyên gia nước ngoài có trình độ chuyên môn cao; tăng cường trang, thiết bị đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế phục vụ công tác huấn luyện; tập huấn nước ngoài; áp dụng chế độ đặc biệt về dinh dưỡng, thuốc bổ, thực phẩm chức năng, chăm sóc y tế, đãi ngộ (lương, thưởng, phụ cấp).

Đối với nhóm các môn đầu tư, chuẩn bị cho SEA Games, Đại hội thể thao trẻ, Đại hội thể thao bãi biển và các Đại hội thể thao quốc tế khác thì tập trung tăng cường phân cấp đào tạo VĐV cho các địa phương, ngành và mở rộng cơ chế xã hội hóa cho các Liên đoàn, Hiệp hội thể thao quốc gia, các tổ chức, doanh nghiệp tham gia đào tạo VĐV. Nhà nước có hình thức hỗ trợ đào tạo VĐV thông qua đặt hàng, trợ giá, trợ cấp và thực hiện các chính sách khuyến khích, đãi ngộ căn cứ tính chất từng môn và yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của từng giai đoạn.

Cùng với đó, củng cố và phát triển các trường, lớp năng khiếu thể thao ở các tỉnh, thành phố với quy mô phù hợp. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thi đấu thể thao đặc biệt là hệ thống các giải thể thao trẻ. Thu hút nguồn lực xã hội hóa và đẩy nhanh quá trình phát triển thể thao chuyên nghiệp nhằm huy động tối đa các nguồn lực xã hội trong công tác đào tạo VĐV. Khuyến khích phát triển câu lạc bộ thể thao hoạt động theo phương thức tự quản, có sự hỗ trợ của Nhà nước. Coi trọng giáo dục đạo đức, ý chí, lòng tự hào dân tộc cho VĐV. Tôn vinh và đãi ngộ xứng đáng các VĐV xuất sắc và phát huy vai trò nêu gương của họ đối với lớp VĐV kế cận và với thanh, thiếu niên nói chung.

KC

Ảnh trong bài
  • Công tác tuyển chọn, đào tạo VĐV năng khiếu, VĐV trẻ, VĐV đội tuyển quốc gia có nhiều đổi mới