Tính đến tháng 7 năm 2020, các lĩnh vực của ngành VHTTDL được điều chỉnh trực tiếp bởi 12 luật, 51 Nghị định, 55 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và khoảng 200 Thông tư, Thông tư liên tịch. Trong đó có 220 văn bản quy phạm pháp luật dược cơ quan có thẩm quyền ban hành trong giai đoạn 2011 – 6/2020.
Nhìn chung, hệ thống pháp luật ngành VHTTDL đã và đang từng bước được hoàn thiện với nhiều nội dung liên quan đến chính sách phát triển ngành, lĩnh vực trên cơ sở thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; về phát triển rộng rãi phong trào Thể dục Thể thao quần chúng, nâng cao thành tích thể thao, tạo cơ sở phát triển thể thao chuyên nghiệp; tăng cường đẩy mạnh lĩnh vực du lịch với vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn. Hệ thống pháp luật về văn hóa, thể thao và du lịch còn có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân khi tham gia các giao dịch dân sự, thúc đẩy các quan hệ dân sự trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch phát triển lành mạnh. Cùng với đó, công tác thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hoàn thiện.
Cụ thể, các quy định về điều kiện kinh doanh, trình tự, thủ tục đăng ký, cấp giấy phép kinh doanh và quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khi kinh doanh các ngành, nghề thuộc các lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch ngày càng đơn giản hóa, tạo điều kiện tối đa cho công dân khi tham gia các hoạt động kinh doanh, bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề pháp luật không cấm theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Thủ tục hành chính ngày càng đơn giản và được công khai, minh bạch theo đúng quy định, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện. Trong giai đoạn 2011 – 2020, Bộ VHTTDL đã rà soát, trình Chính phủ ban hành 02 Nghị định và ban hành theo thẩm quyền 11 thông tư nhằm trực tiếp cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch. Ngoài ra, thông qua việc ban hành mới, sửa đổi, bổ sung một số luật và một số Nghị định của Chính phủ do Bộ VHTTDL chủ trì soạn thảo, nhiều thủ tục hành cấp phép đã được bãi bỏ và thay thế bằng thủ tục thông báo; đơn giản hóa mẫu đơn, mẫu tờ khai. Quy trình, thủ tục thực hiện được quy định rõ ràng, minh bạch; thời gian thực hiện thủ tục hành chính ngày càng được rút ngắn.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa, thể thao và du lịch đã tạo điều kiện cho nhân dân tham gia tích cực vào hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, tài nguyên du lịch; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sáng tạo, người sử dụng và công chúng hưởng thụ văn hóa; bảo vệ người dân khi tham gia hoạt động du lịch.
Cụ thể, ở lĩnh vực Thể dục Thể thao: trong giai đoạn 2011 – 2020, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật lĩnh vực Thể dục Thể thao thường xuyên được hoàn thiện. Đặc biệt, năm 2018 Bộ VHTTDL đã xây dựng, trình Chính phủ đệ trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TD,TT. Bộ VHTTDL đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 36/2019/NĐ-CP ngày 29/4/2019 quy định chi tiết một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TD, TT; Nghị định số 46/2019/NĐ-CP ngày 27/5/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Thể thao; trình Thủ tướng Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật lĩnh vực này.
Ở lĩnh vực gia đình, hoàn thiện cơ sở pháp lý nhằm điều chỉnh toàn diện công tác gia đình: trước năm 2013, trong lĩnh vực công tác gia đình chỉ có các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình, chưa có văn bản pháp luật điều chỉnh tổng thể lĩnh vực công tác gia đình; ban hành một số các Thông tư về bạo lực gia đình.
Đối với công tác du lịch, giai đoạn 2011 – 2020 đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật thuộc lĩnh vực du lịch thông qua việc Bộ VHTTDL trình Chính phủ đệ trình Quốc hội thông qua Luật Du lịch năm 2017.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác cải cách thể chế giai đoạn 2011 – 2020 của Bộ VHTTDL vẫn còn những tồn tại như: do đặc thù của đối tượng quản lý rộng, da dạng, đa ngành, đa lĩnh vực, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngành VHTTDL tương đối phức tạp. Hiện nay có khoảng 350 văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi chức năng của Bộ nhưng số lượng luật, pháp lệnh do Bộ VHTTDL được giao chủ trì xây dựng còn ít so với yêu cầu quản lý.
Do sự phát triển của kinh tế - xã hội dẫn đến hệ thống pháp luật bộc lộ những khoảng trống pháp lý, chưa có quy phạm điều chỉnh hoặc các quy phạm đã lỗi thời, một số luật mâu thuẫn chồng chéo, gây khó khăn khi áp dụng.
Bước sang giai đoạn 2021 – 2030 và những năm tiếp theo, hệ thống pháp luật ngành văn hóa, du lịch, gia đình, TDTT cần tiếp tục được hoàn thiện theo các nhiệm vụ trọng tâm: Xây dựng Luật, Pháp lệnh điều chỉnh những lĩnh vực hiện đang được điều chỉnh bằng Nghị định như: nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, hoạt động văn hóa công cộng và kinh doanh dịch vụ văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa, quyền và nghĩa vụ của văn nghệ sỹ…; xây dựng, ban hành chính sách kinh tế trong văn hóa, thể thao và du lịch, cụ thể gắn văn hóa, thể thao, du lịch với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa, thể thao, du lịch, đồng thời đảm bảo yêu cầu chính trị, tư tưởng của hoạt động văn hóa. Thực hiện cơ chế mở rộng hoạt động kinh doanh dịch vụ, tạo nguồn thu hỗ trợ cho hoạt động sự nghiệp của các đơn vị văn hóa - nghệ thuật TDTT.
Cùng với đó xây dựng, ban hành chính sách văn hóa trong kinh tế, bảo đảm cho văn hóa là động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế. Xây dựng văn minh thương mại đạo đức nghề nghiệp, văn hóa kinh doanh, chú ý tính thẩm mỹ, bản sắc dân tộc và tính hiện đại của kiến trúc trong xây dựng các khu dân cư, khu công nghiệp; hoàn thiện chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch nhằm thu hút nguồn lực từ các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội để xây dựng và phát triển văn hóa, thể thao và du lịch; bổ sung, hoàn thiện chính sách bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc hướng vào văn hóa vật thể và phi vật thể. Xây dựng chính sách khuyến khích sáng tạo trong hoạt động văn hóa.
N. H