Bản tin Phổ biến, giáo dục pháp luật ngành thể dục thể thao số 5/2005

UỶ BAN THỂ DỤC THỂ THAO

 

 

BẢN TIN

PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

NGÀNH THỂ DỤC THỂ THAO

 

(Thực hiện Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ

giai đoạn 2003- 2007)

 

 

Số 5/2005

 

 

Hà Nội- 2005

 

 

Chịu trách nhiệm nội dung:

TS LÊ ANH THƠ

 

 

Địa chỉ cung cấp văn bản quy phạm pháp luật về các lĩnh vực:

Vụ Pháp chế- Uỷ ban Thể dục thể thao

 

ĐT: (04)7333108, (04)7471355

 

 

Email: liemphapche@yahoo.com

 

 

 

 

 

Mục lục

 

 

 

 

Trang

1. Thông tin từ Trung ương:

4- 11

2. Hoạt động tại một số địa phương

12- 14

3. Văn bản quy phạm pháp luật mới về thể dục thể thao:

 

 

Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế và thể dục thể thao

 

15-26

 

Quyết định số 100/2005/QĐ-TTg ngày 10/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình phát triển thể dục thể thao ở xã, phường, thị trấn đến năm 2010

 

26- 31

 

Quy định khung về phong đẳng cấp vận động viên quốc gia các môn thể thao (ban hành kèm theo Quyết định số 15 /2005/QĐ/UBTDTT ngày 07tháng 1 năm 2005 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục Thể thao)

 

31-34

 

Thông tư liên tịch số 88/2005/TTLT-UBTDTT-BNV ngày 30/3/2005 của Uỷ Thể dục thể thao và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về thể dục thể thao ở địa phương

 

35-40

 

 

 

Thông tin từ trung ương

 

1. Ngày 22/3/2005, Bộ chính trị đã ra Nghị quyết số 47-NQ/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Theo bản Nghị quyết, từ năm 1993 với sự chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và sự hưởng ứng mạnh mẽ của nhân dân, chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình đã thực sự đi vào cuộc sống và đạt được những kết quả quan trọng: nhận thức của toàn xã hội đã có bước chuyển biến rõ rệt, quy mô gia đình có một hoặc hai con được chấp nhận ngày càng rộng rãi; nhịp độ gia tăng dân số nhanh đã được khống chế, số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ trên 3,5 con năm 1992, xuống 2,28 con năm 2002, tỉ lệ tăng dân số giảm tương ứng từ hơn 2% còn 1,32%. Kết quả của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đã góp phần rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế- xã hội, tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm, xóa đói, giảm nghèo và nâng cao mức sống của nhân dân. Với những thành tựu của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình, năm 1999, Việt Nam đã được nhận Giải thưởng Dân số của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, từ sau năm 2000 đến nay, kết quả thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình chững lại và giảm sút. Trong hai năm 2003 và 2004, tỉ lệ phát triển dân số, tỉ lệ sinh con thứ ba trở lên tăng mạnh trở lại. Đặc biệt là tình trạng cán bộ, đảng viên sinh con thứ ba trở lên tăng nhiều ở hầu hết các địa phương, gây tác động tiêu cực đến phong trào nhân dân thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Tình hình này đã làm chậm thời gian đạt mức sinh thay thế (trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có hai con). Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do chúng ta chưa nhận thực đầy đủ tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của công tác này trong bối cảnh kinh tế, văn hóa và xã hội của đất nước, dẫn đến chủ quan, thỏa mãn với những kết quả ban đầu, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiên định trong tổ chức thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác dân số thiếu ổn định, quá tải; cơ chế quản lý kém hiệu quả; tổ chức, điều hành chương trình lúng túng, chậm đổi mới; việc ban hành Pháp lệnh Dân số và một số chính sách khác thiếu chặt chẽ. Trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội nước ta chưa phát triển, tình trạng nghèo đói còn nhiều, tài nguyên thiên nhiên hạn hẹp, quy mô dân số hiện nay khá lớn với hơn 82 triệu người, mật độ dân số vào hàng cao nhất thế giới, chất lượng dân số chưa được cải thiện đáng kể v.v... thì việc dân số tăng nhanh trở lại sẽ phá vỡ những thành quả đã đạt được, cản trở sự phát triển kinh tế-xã hội và việc nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, làm chậm quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đặt nước ta trước nguy cơ tụt hậu xa hơn. Vì vậy, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong thời gian tới.

Quan điểm chỉ đạo: Tiếp tục quán triệt và kiên quyết thực hiện các quan điểm cơ bản của Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; phấn đấu sớm đạt được mục tiêu về ổn định quy mô dân số, đồng thời từng bước nâng cao chất lượng dân số Việt Nam. Toàn Đảng, toàn dân kiên trì thực hiện chủ trương mỗi cặp vợ chồng chỉ có một đến hai con để có điều kiện nuôi dạy tốt. Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu đi đầu thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

Mục tiêu: Nhanh chóng đạt mức sinh thay thế (trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có hai con), tiến tới ổn định quy mô dân số nước ta ở mức 115-120 triệu người vào giữa thế kỷ XXI; Nâng cao chất lượng dân số Việt Nam về thể chất, trí tuệ, tinh thần, cơ cấu nhằm đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nhiệm vụ và một số giải pháp chủ yếu: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền; Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động và giáo dục; Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ và nâng cao hiệu lực quản lý; Chính sách và đầu tư nguồn lực; Mở rộng và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình; Nâng cao chất lượng dân số Việt Nam.

2. Ngày 5/5/2005 tại Hà Nội đã diễn ra phiên khai mạc Kỳ họp thứ 7 Quốc Hội khoá XI. Tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An điểm qua tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong những tháng cuối năm 2004 và quý 1 năm 2005. Chủ tịch cũng thay mặt Quốc hội biểu dương đồng bào và chiến sĩ cả nước, các cấp các ngành đã nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, quyết tâm thực hiện thắng lợi NQ của Quốc hội về nhiệm vụ năm 2005, góp phần hoàn thành kế hoạch 5 năm 2001 -2005.

Theo chương trình nghị sự, tại kỳ họp này Quốc hội sẽ xem xét, quyết định các nội dung sau đây:

Một là, tập trung xây dựng pháp luật với việc giành phần lớn thời gian và công sức để xem xét, thông qua 11 dự án luật, bộ luật và 1 Nghị quyết, đó là: Bộ luật dân sự (sửa đổi); Luật thương mại (sửa đổi); Bộ luật hàng hải Việt Nam (sửa đổi); Luật dược; Luật đường sắt; Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế; Luật quốc phòng; Luật kiểm toán nhà nước; Luật giáo dục (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan; Nghị quyết về việc điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2005. Trong số những dự án luật này, có một số dự án lớn, đặc biệt là dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi), một trong những Bộ luật rất quan trọng của hệ thống pháp luật nước nhà, có số lượng điều luật lớn, nhiều nội dung phức tạp, liên quan đến mọi cơ quan, tổ chức và công dân.

Quốc hội cũng sẽ cho ý kiến đối với 12 dự án luật khác là: Luật du lịch; Luật bảo vệ môi trường (sửa đổi); Luật các công cụ chuyển nhượng; Luật sở hữu trí tuệ; Luật giao dịch điện tử; Luật nhà ở; Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sửa đổi); Luật thanh niên; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khoáng sản; Luật công an nhân dân; Luật chống tham nhũng và Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Với số lượng lớn các dự án luật nêu trên, nhiệm vụ xây dựng luật của Quốc hội tại kỳ họp này là khá nặng nề so với các kỳ họp trước. Song, phát huy kinh nghiệm và kết quả đạt được sau 2 năm thực hiện quy trình đổi mới  việc xem xét, thông qua luật, chúng ta sẽ cố gắng đến mức cao nhất để hoàn thành chương trình xây dựng pháp luật đã đề ra.

Hai là, Quốc hội sẽ xem xét báo cáo bổ sung của Chính phủ về kết quả thực hiện nhiệm vụ và ngân sách nhà nước năm 2004; việc triển khai thực hiện nhiệm vụ và ngân sách nhà nước năm 2005; phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 2003.

Ba là, Quốc hội sẽ tiến hành giám sát về tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về dự án Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất; xem xét báo cáo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về giám sát tình hình khám, chữa bệnh cho nhân dân; các báo cáo công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; nghe Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam báo cáo về các kiến nghị và tình hình giải quyết kiến nghị của cử tri; tiến hành việc chất vấn, trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội.

Ngoài ra, Quốc hội cũng sẽ xem xét và quyết định về một số vấn đề quan trọng khác.

3. Ngày 17/3/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 36/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em. Theo Điều 31 Nghị định này, để cụ thể hoá Điều 17 của Luật về Quyền được hoạt động thể dục, thể thao phù hợp với lứa tuổi của trẻ em, Chính phủ giao trách nhiệm cụ thể cho Uỷ ban Thể dục thể thao như sau:

"1. Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, xây dựng và hướng dẫn thực hiện kế hoạch về thể dục, thể thao, phương pháp luyện tập tăng cường sức khoẻ, thể lực cho trẻ em phù hợp với từng lứa tuổi.

 

2. Chủ trì, phối hợp với Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các Bộ, ngành, đoàn thể liên quan xây dựng và thực hiện kế hoạch phục vụ nhu cầu thể dục, thể thao của trẻ em; chỉ đạo các cơ quan thuộc phạm vi quản lý của Uỷ ban Thể dục Thể thao và hướng dẫn Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các kế hoạch đó.

3. Quản lý và tổ chức việc sản xuất, cung ứng và sử dụng dụng cụ thể dục, thể thao cho trẻ em.

4. Chỉ đạo, hướng dẫn việc xây dựng cơ sở thể dục, thể thao cho trẻ em; trong kinh phí hoạt động thể thao quần chúng, dành một phần kinh phí cho hoạt động thể thao quần chúng của trẻ em. Trường hợp chưa có điều kiện xây dựng những công trình thể thao riêng cho trẻ em thì trong các công trình chung phải có khu vực dành riêng cho trẻ em với trang thiết bị phù hợp."

4. Ngày 5/4/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 09/2005/CT-TTg về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính. Theo văn bản này thì trong năm 2004, công tác cải cách hành chính tiếp tục là khâu trọng tâm và ưu tiên hàng đầu trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; đã có bước tiến rõ nét hơn và thu được một số kết quả tích cực trên cả 4 nội dung của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010, nhất là về xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế và hành chính phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu và mục tiêu đề ra, nhìn chung công tác cải cách hành chính vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết điểm, yếu kém, tiến độ cải cách còn chậm, hiệu quả thấp, chưa đồng bộ.

 

Để tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính đồng bộ, sâu rộng và có hiệu quả hơn trên các lĩnh vực, mà trọng tâm và yêu cầu cấp bách là tập trung vào cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, tạo cho được chuyển biến cơ bản trong quan hệ giữa cơ quan hành chính với dân và doanh nghiệp, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các giải pháp về đẩy mạnh cải cách hành chính được Chính phủ quyết định tại Nghị quyết số 01/2005/NQ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2005, đồng thời từ nay đến hết năm 2005 thực hiện tốt một số công việc cụ thể như: Tổng rà soát và sửa đổi, đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý được phân công. Tập trung trước hết đối với một số lĩnh vực đang có nhiều bức xúc là: đăng ký hộ tịch, hộ khẩu, công chứng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, cấp phép xây dựng, thi tuyển cán bộ, công chức, đăng ký kinh doanh, thuế, hải quan; Tiếp tục triển khai và tổ chức thực hiện tốt cơ chế "một cửa" theo Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 04 tháng 9 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; sơ kết, rút kinh nghiệm, hoàn thiện và phát huy hiệu quả, tác dụng thực chất của cơ chế này ở cấp tỉnh và cấp huyện; triển khai áp dụng rộng khắp tại cấp xã; Căn cứ Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2004 của Chính phủ, các bộ, ngành trong quý II năm 2005 phải khẩn trương hoàn thành và trình Chính phủ các đề án phân cấp quản lý nhà nước cho địa phương trên các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi được phân công. Trên cơ sở những nội dung quản lý nhà nước được Chính phủ quyết định phân cấp cho chính quyền địa phương trên từng ngành, lĩnh vực, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong quý IV năm 2005 rà soát những nhiệm vụ đã phân cấp và quyết định thực hiện phân cấp những công việc thuộc phạm vi quản lý của mình cho cấp huyện, cấp xã; Đẩy mạnh và kiên quyết thực hiện chủ trương xã hội hóa, chuyển hoạt động của các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công sang cơ chế dịch vụ phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…

 

5. Ngày 6/5/2005, Chính phủ ra Nghị quyết 06/2005/NQ-CP về phiên họp thường kỳ tháng 4 năm 2005. Theo đó, một trong những nội dung của phiên họp (từ ngày 27 đến 28/4 /2005) là Chính phủ nghe Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006- 2010.

Chính phủ đã yêu cầu các Bộ, ngành và địa phương tổ chức thảo luật, góp ý kiến cụ thể với Chính phủ về nội dung và các giải pháp đề ra trong dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006- 2010. Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp thu các ý kiến tại phiên họp và các ý kiến của Bộ, ngành, địa phương để hoàn chỉnh dự thảo Kế hoạch, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét trình Ban Chấp hành trung ương Đảng tại Hội nghị trung ương lần thứ 12 và chuẩn bị trình Quốc Hội cho ý kiến vào Kỳ họp cuối năm 2005.

6. Ngày 5/4/2005, tại Hà Nội Uỷ ban Thể dục Thể thao đã tổ chức cuộc họp lần thứ nhất Ban Soạn thảo Dự án Luật Thể dục, thể thao. Bộ trưởng Nguyễn Danh Thái- Trưởng Ban Soạn thảo chủ trì cuộc hợp với sự tham dự của hầu hết các thành viên Ban soạn thảo là đại diện lãnh đạo các Bộ, ngành có liên quan. Tại cuộc họp đã có 10 lượt ý kiến tham gia góp ý, thảo luận về những vấn đề quan trọng như: tính cấp thiết phải ban hành Luật Thể dục, thể thao, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong quá trình xây dựng, cơ cấu chương điều cũng như các nội dung chính cần được quy định trong dự thảo Luật Thể dục, thể thao. Kết thúc cuộc họp, Bộ trưởng Nguyễn Danh Thái đã kết luận: Thường trực Ban soạn thảo cần tiếp thu tất cả các ý kiến đóng góp để chỉnh sửa Đề cương Luật Thể dục, thể thao, đồng thời đẩy mạnh công tác xây dựng Luật trong thời gian tới nhằm đảm bảo đúng kế hoạch đã đề ra. Những vấn đề về bổ sung thành viên Ban Soạn thảo, bổ sung kinh phí, giao Thường trực Ban soạn thảo nghiên cứu tham mưu để Bộ trưởng xem xét quyết định.

7. Để phục vụ công tác giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc Hội, vừa qua Uỷ ban Thể dục thể thao đã có văn bản báo cáo Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc Hội về tình hình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và của Uỷ ban Thể dục thể thao từ đầu nhiệm kỳ Quốc Hội khoá XI đến ngày 30/4/2005 trong lĩnh vực thể dục thể thao. Nội dung báo cáo tập trung vào 7 vấn đề theo yêu cầu tại yêu cầu tại văn bản số 837CV/VH-GD-TTN ngày 15/4/2005 của Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội gồm: Số lượng các văn bản quy phạm pháp luật cần ban hành, đã được ban hành và chưa ban hành; Việc thực hiện các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản; Sự phù hợp của nội dung văn bản với các quy định của Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc Hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội; sự phù hợp của hình thức văn bản với nội dung văn bản; sự phù hợp của nội dung văn bản với thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản; tính thống nhất của văn bản trong hệ thống pháp luật; Đánh giá về những tác động tích cực, hạn chế của văn bản quy phạm pháp luật được ban hành; Công tác kiểm tra của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Bộ, cơ quan ngang Bộ và việc xử lý đối với những văn bản quy phạm pháp luật có vi phạm; Nguồn kinh phí để phục vụ cho việc ban hành văn bản; Những khó khăn, vướng mắc trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và nguyên nhân của tình hình này, đồng thời đề xuất các biện pháp khắc phục.

Theo kết quả thống kê, từ đầu nhiệm kỳ Quốc Hội khoá XI (năm 2001) đến nay, Uỷ ban Thể dục thể thao đã trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 04 Nghị định, 01 Chỉ thị và 02 Quyết định; ban hành hoặc liên tịch với các Bộ, ngành có liên quan ban hành 7 thông tư, 33 quyết định và 2 chỉ thị . Tính đến ngày 30/4/2005 vẫn còn 8 văn bản quy phạm pháp luật chậm được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung. Trong năm 2005 Uỷ ban Thể dục thể thao dự kiến soạn thảo trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành và ban hành 15 văn bản quy phạm pháp luật.

8. Ngày 27/4/2005 tại trụ sở Uỷ ban Thể dục thể thao, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục thể thao Nguyễn Trọng Hỷ đã tiếp và làm việc với Viện Văn hoá Tây Ban Nha- Việt Nam, do Chủ tịch Miguel Bordera làm trưởng đoàn đang thăm và làm việc tại Việt Nam. Chuyến thăm nhằm tăng cường mối quan hệ hợp tác về Văn hoá giữa hai nước Việt Nam và Tây Ban Nha. Trong đó, Hội hữu nghị Việt Nam- Tây Ban Nha mong muốn xây dựng và phát triển môn Võ thuật cổ truyền Việt Nam tại Tây Ban Nha và các nước Châu Âu. Tại buổi tiếp, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục thể thao Nguyễn Trọng Hỷ, nêu lên những nét cơ bản của thể thao Việt Nam, trong đó Võ cổ truyền là môn thể thao mang đậm bản sắc dân tộc đang được giữ gìn và phát huy. Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục thể thao, có lời mời Chủ tịch Miguel Bordera đến thăm một số địa phương để tìm hiểu môn Võ cổ truyền với những nét độc đáo, đó là các tỉnh thành: Hà Nội, Hà Tây, Phú Yên, Bình Định, Nha Trang....Chủ tịch Miguel Bordera cho biết: "...nhiều năm qua, tôi đã giành thời gian tìm hiểu về Võ cổ truyền Việt Nam. Qua đó tôi  biết được, Võ cổ truyền các bạn rất giàu bản sắc dân tộc. Tây Ban Nha và các nước Châu Âu rất thích môn Võ cổ truyền Việt Nam.  Tôi đang chuẩn bị những cơ sở pháp lý để được phép xây dựng và truyền bá môn Võ cổ truyền Việt Nam tại Tây Ban Nha và các nước Châu Âu, tiến tới thành lập Liên đoàn Võ dân tộc Việt Nam tại Châu Âu". Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục thể thao Nguyễn Trọng Hỷ hoan nghênh ý tưởng của Chủ tịch Miguel Bordera và mong muốn điều đó sớm trở thành hiện thực.

9. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị ngành Thể dục thể thao tháng 3 năm 2001, thời gian qua Uỷ ban Thể dục thể thao đã tiến hành xây dựng Chương trình nâng cao tầm vóc và thể lực người Việt Nam (bằng giải pháp dinh dưỡng và thể dục thể thao). Uỷ ban Thể dục thể thao đã tiến hành đợt tổng điều tra thể chất nhân dân từ 7 đến 60 tuổi, đã tổ chức nhiều cuộc hội nghị, hội thảo lấy ý kiến các bộ, ban, ngành có liên quan và các chuyên gia về dự thảo Chương trình. Trên cơ sở tiếp thu các ý kiến đóng góp, vừa qua Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục thể thao đã ký tờ trình Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình này. Theo bản dự thảo, mục tiêu tổng thể của Chương trình là: "Cải thiện rõ rệt tầm vóc và thể lực của người Việt Nam trong 25 năm tới, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo cơ sở tốt cho hội nhập kinh tế quốc tế và bảo vệ quốc phòng an ninh". Để đạt được mục tiêu tổng thể nêu trên, sẽ có 3 nhóm nội dung và giải pháp chính cần triển khai gồm: xúc tiến công tác nghiên cứu cơ bản và ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ việc nâng cao tầm vóc, thể lực người Việt Nam; triển khai thí điểm các giải pháp đồng bộ về dinh dưỡng và thể dục thể thao trong trường học ở một số địa phương; Triển khai đại trà các giải pháp đồng bộ về dinh dưỡng và thể dục thể thao trong trường học ở các địa phương trong cả nước.

10. Ngày 24/3/2005 tại trụ sở Liên đoàn Bóng đá Việt Nam đã diẽn ra lễ ký kết hợp đồng bản quyền truyền hình các trận đấu của giải vô định quốc gia và hạng nhất giữa Liên đoàn Bóng Đá Việt Nam và Đài truyền hình Việt Nam. Theo đó, Đài truyền hình Việt nam sẽ chi trả cho Liên đoàn Bóng đá 25 triệu đồng/ trận đấu được truyền hình trực tiếp. Theo Liên đoàn Bóng đá Việt Nam, việc khai thác bản quyền truyền hình trên thế giới được chia thành 3 giai đoạn tùy theo mức độ phát triển của nền bóng đá. Cụ thể là: Giai đoạn 1, khi bóng đá chuyên nghiệp đang trong giai đoạn phát triển, các CLB và doanh nghiệp làm (hoặc tài trợ cho) bóng đá có nhu cầu được truyền hình để quảng bá thương hiệu của mình. Trong giai đoạn này, bóng đá rất cần truyền hình và vấn đề khai thác bản quyền không được đặt ra. Giai đoạn 2, khi bóng đá chuyên nghiệp phát triển đến một mức độ nhất định để có thể "bán" sản phẩm - trận đấu, Liên đoàn Bóng đá sẽ thay mặt các CLB khai thác bản quyền truyền hình với Đài truyền hình theo 2 phương thức: Bán từng trận và bán trọn gói cả giải. Giai đoạn 3, bóng đá chuyên nghiệp phát triển tới đỉnh cao, các CLB sẽ trực tiếp khai thác bản quyền truyền hình với các đài, không cần qua cầu nối của Liên đoàn bóng đá.

Căn cứ Căn cứ vào các giai đoạn đó, Bóng đá Việt Nam đã đi qua giai đoạn 1 và bước vào giai đoạn 2 để có thể đặt ra vấn đề bản quyền truyền hình. Tại Giải vô địch quốc gia 2005, tổng số các trận đấu mà Đài Truyền hình Việt Nam mua là 44 trận. Việc phân chia tiền bán bản quyền truyền hình giữa Liên đoàn và các CLB sẽ theo tỷ lệ 50-50, trong đó đội chủ nhà được hưởng 35%, còn đội khách là 15%.

__________________________________

 

 

 

 

 

Hoạt động ở một số địa phương

 

1. Thừa Thiên Huế:

Ngày 5/5/2005, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã ra Quyết định 1547/2005/QĐ-UB quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Thể dục Thể thao. Theo Quyết định này, Sở Thể dục Thể thao có chức năng là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh; tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực thể dục thể thao trên địa bàn tỉnh và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân tỉnh và theo quy định của pháp luật. Sở Thể dục Thể thao chịu sự chỉ đạo, quản lý về biên chế và hoạt động của Uỷ ban nhân dân tỉnh; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn của Uỷ ban Thể dục thể thao. Sở Thể dục Thể thao Thừa Thiên Huế có các nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể về các lĩnh vực như về công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch, soạn thảo, trình văn bản về quản lý ngành, tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật…; về thể duc, thể thao quần chúng; về thể thao thành tích cao…

Về tổ chức và biên chế, Sở Thể dục Thể thao Thừa Thiên Huế có Lãnh đạo Sở (gồm giám đốc và không quá 3 phó giám đốc) và các đơn vị trực thuộc gồm: Văn phòng, Thanh tra, Phòng Nghiệp vụ, Phòng Kế hoạch- Tài chính, Trường Thể dục thể thao Huế, Trung tâm Thể thao dưới nước, Trung tâm Thể thao Huế và Đoàn Bóng đá Huế.

2. Hải phòng:

 

Thực hiện kế hoạch 46/KH-TU ngày 5/10/2004 của Ban Thường vụ Thành uỷ Hải phòng về chương trình nghiên cứu xây dựng luận cứ khoa học phục vụ nghiên cứu biên soạn dự thảo báo cáo chính trị Đại hội Đảng XIII Đảng bộ thành phố Hải phòng, ngày 20/4/2005 Sở Thể dục Thể thao Hải phòng đã tổ chức cuộc hội thảo về Tình hình, kết quả thực hiện xã hội hoá, huy động các nguồn lực đầu tư phát triển thể dục thể thao trong 5 năm (2001-2005), đề xuất phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho giai đoạn 2006-2010. Đến dự có lãnh đạo các Vụ, Viện liên quan thuộc Uỷ ban Thể dục thể thao, lãnh đạo Thành phố, các ban ngành ở địa phương, các quận, huyện của thành phố…

Trong bài phát biểu đề dẫn, lãnh đạo Sở Thể dục Thể thao Hải phòng đã đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xã hội hoá thể dục thể thao của Thành phố trong thời gian tới. Cụ thể như sau:

Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác thể dục thể thao; phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành của Thành phố đặc biệt là cơ quan thống tin đại chúng để đưa tri thức thể dục thể thao thao đến mọi người dân nhằm cuốn hút ngày càng đông đảo quần chúng nhân dân đến với thể thao.

Đa dạng hoá các loại hình tổ chức thể dục thể thao quần chúng ở cơ sở để đáp ứng nhu cầu thể dục thể thao của nhân dân.

Cải tiến hệ thống thi đấu thể dục thể thao một mặt cuốn hút đông đảo quần chúng tham gia, một mặt tăng cường nguồn thu và nguồn tài trợ từ các cuộc thi đấu thể thao.

Đa dạng hoá các loại hình tổ chức đào tạo các tài năng thể thao trẻ, khuyến khích các tổ chức xã hội, tư nhân mở các Trường thể thao nghiệp dư, các lớp năng khiếu thể thao để đào tạo tài năng

Thực hiện xã hội hoá ở mức độ hợp lý đối với công tác đào tạo vận động viên thể thao ở trình độ cao, cho phép các tập đoàn, doanh nghiệp trong và ngoài nước bảo trợ cho các câu lạc bộ hoặc đội tuyển của Thành phố

Khuyến khích hỗ trợ và xây dựng các công trình thể dục thể thao, sản xuất và lưu thông thiết bị, dụng cụ, hàng hoá thể dục thể thao để tăng tài sản thể dục thể thao trong xã hội đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng tăng của nhân dân, giảm bớt phần chi ngân sách Nhà nước.

Tiếp tục từng bước hoàn thiện các thiết chế quản lý nhà nước về Thể dục thể thao, cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức xã hội về thể dục thể thao, cơ chế phối hợp giữa ngành thể dục thể thao với các ban, ngành, các doanh nghiệp để phát triển thể dục thể thao

Tiếp tục triển khai có hiệu quả Pháp lệnh thể dục, thể thao và Chỉ thị 17 của Ban Bí thư trung ương Đảng, Chỉ thị 13 của Ban Thường vụ Thành uỷ về phát triển thể dục thể thao thành phố đến 2010.

 

3. Ninh Bình

 

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 1598/CP-VX ngày 25/10/2004 và của Uỷ ban Thể dục thể thao tại Công văn số 1576/UBTDTT-PC ngày 05/11/2004 về việc tổ chức Đại hội thể dục thể thao các cấp và Đại hội thể dục thể thao toàn quốc lần thứ V năm 2006, Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình đã ban hành các văn bản để triển khai công việc, bao gồm:

- Quyết định số 3185/QĐ-UB ngày 24/12/2004 về việc thành lập Ban chỉ đạo Đại hội TDTT tỉnh Ninh Bình

 

- Đề án số 31/ĐA-TDTT ngày 02/2/2005 về tổ chức Đại hội TDTT các cấp tỉnh Ninh Bình.

- Kế hoạch 29/KH-TDTT ngày 02/2/2005 về tổ chức Đại hội TDTT các cấp năm 2005-2006.

- Chỉ thị số 05/2005/CT-UB ngày 04/2/2005 về việc tổ chức Đại hội TDTT các cấp lần thứ III.

Theo các văn bản trên, Đại hội TDTT các cấp tại Ninh Bình phấn đấu đạt những yêu cầu đặt ra như: quy mô và hình thức phải theo quy định, tiết kiệm, tránh phô trương, lãng phí, bảo đảm kỷ cương, an toàn, đoàn kết, tạo được phong trào TDTT rộng lớn trong nhân dân, tích cực tham gia cuộc vận động "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại"; chấp hành nghiêm chỉnh điều lệ, quy trình tổ chức đại hội, thể hiện tinh thần "Đoàn kết, trung thực, cao thượng và tiến bộ"; thể hiện tinh thần đổi mới, nội dung phong phú, hấp dẫn, phù hợp với điều kiện kinh tế của địa phương, khai thác sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế, tổ chức xã hội; phấn đấu 70% số xã, phường tổ chức được Đại hội TDTT, 100% các huyện, thị xã, 3 ngành và tỉnh tổ chức Đại hội TDTT theo đúng đề án và quy trình của TW hướng dẫn.

Về thời gian tiến hành : Từ tháng 4 đến tháng 9 năm 2005 tổ chức xong đại hội TDTT ở cấp xã, phường, thị trấn; Tháng 9 năm 2005 đến tháng 2 năm 2006 tổ chức xong Đại hội TDTT cấp huyện, thị xã và tổ chức khai mạc Đại hội TDTT cấp tỉnh vào ngày 01.4.2006.

Về các giải pháp thực hiện: Ban hành các văn bản chỉ đạo đại hội và thành lập Ban chỉ đạo các cấp; phát động các phong trào; chuẩn bị cơ sở vật chất để phục vụ; chọn những xã, phường, thị trấn có điều kiện theo tiêu chí đề ra để làm điểm; chủ động xây dựng kế hoạch để tổ chức đại hội TDTT cơ sở...

 

2. Ninh Thuận

 

Ngày 08/3/2005, Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận ban hành Chỉ thị 09/CT và Kế hoạch số 682/KH-BCĐ về việc tổ chức Đại hội TDTT các cấp tỉnh Ninh Thuận lần thứ III năm 2005-2006. Theo các văn bản trên, mục đích của Đại hội là đánh giá một cách toàn diện phong trào TDTT quần chúng trong tỉnh; duy trì và đẩy mạnh cuộc vận động "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại"; giữ gìn và phát huy các môn thể thao dân tộc, các trò chơi dân gian truyền thống ở địa phương; phát triển, nâng cao thành tích các môn thể thao ở cơ sở đồng thời phát hiện nhân tài thể thao xuất sắc có triển vọng bổ sung vào đội tuyển tỉnh nhằm chuẩn bị tốt lực lượng VĐV để tham dự Đại hội TDTT toàn quốc.

Đại hội được tổ chức từ tháng 3/2005 đến tháng 6/2006; chia làm 3 giai đoạn tương ứng với 3 cấp. Uỷ ban nhân dân tỉnh cũng đã thành lập Ban Chỉ đạo Đại hội TDTT, Ban tổ chức Đại hội TDTT tỉnh và ban hành Điều lệ các môn thi đấu tại Đại hội TDTT tỉnh.

__________________________________

 

Văn bản quy phạm pháp luật về thể dục thể thao

 

NGHỊ QUYẾT

của Chính phủ số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao

 

Thực hiện chủ trương xã hội hoá các lĩnh vực hoạt động xã hội theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/CP ngày 21 tháng 8 năm 1997 về phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá (dưới đây gọi tắt là Nghị quyết 90) và Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 8 năm 1999 về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao (dưới đây gọi tắt là Nghị định 73).

Tại phiên họp thường kỳ tháng 9 năm 2004, Chính phủ đã đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 90 và Nghị định 73 và quyết định ban hành Nghị quyết về đẩy mạnh và nâng cao chất lượng xã hội hoá trong các lĩnh vực nói trên để thống nhất hơn nữa về nhận thức và chủ trương, có cơ chế, chính sách cụ thể, có giải pháp và bước đi thích hợp đến năm 2010.

I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN XÃ HỘI HOÁ CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC, Y TẾ, VĂN HOÁ VÀ THỂ DỤC THỂ THAO

Qua 7 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 90 và 5 năm thực hiện Nghị định 73, công tác xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao đã thu được những kết quả quan trọng: tiềm năng và nguồn lực to lớn của xã hội bước đầu được phát huy; khu vực ngoài công lập phát triển với những loại hình và các phương thức hoạt động mới, đa dạng, phong phú; khu vực công lập đã có nhiều đổi mới trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện xã hội hoá đã bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập. Hạn chế lớn nhất là tốc độ xã hội hoá còn chậm so với tiềm năng và chỉ tiêu định hướng của Nghị quyết 90; mức độ phát triển xã hội hoá không đồng đều giữa các vùng miền và cả giữa các tỉnh, thành phố, địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội như nhau.

Công tác quản lý còn bất cập cả trong định hướng phát triển, quy hoạch và chỉ đạo thực hiện. Việc triển khai thực hiện còn chậm và nhiều lúng túng. Quản lý nhà nước vừa gò bó, vừa buông lỏng; cơ chế chính sách chưa cụ thể, rõ ràng, thiếu đồng bộ, còn chưa phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các lực lượng xã hội chưa được tổ chức và phối hợp tốt để chủ động, tích cực tham gia vào quá trình xã hội hoá.

Khi thu nhập xã hội tăng lên, nhiều gia đình đã tự túc về các nhu cầu giáo dục, y tế... (như du học tự túc, khám chữa bệnh ở các cơ sở tư nhân) thì Nhà nước vẫn sử dụng chính sách bao cấp qua chế độ phí thấp cho tất cả mọi người, đặt Nhà nước luôn ở trong tình trạng hạn hẹp về ngân sách, không đủ điều kiện để chăm lo tốt hơn cho các đối tượng chính sách, cho người nghèo, vùng nghèo, vùng khó khăn, đồng thời cũng không tập trung được cho những mục tiêu ưu tiên.

Trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, các cơ sở công lập chiếm tỷ trọng lớn vẫn áp dụng cơ chế quản lý như các cơ quan hành chính nên đã không phát huy được tính năng động, tự chủ và trách nhiệm. Các cơ sở ngoài công lập chưa nhiều, cơ sở vật chất còn đơn sơ, nghèo nàn, đội ngũ cán bộ còn thiếu và yếu. Chất lượng và hiệu quả hoạt động chưa cao, còn có những biểu hiện tiêu cực, thậm chí có những cơ sở đã vi phạm pháp luật.

Nguyên nhân của những hạn chế trước hết là do nhận thức còn chưa đầy đủ, xem xã hội hoá chỉ là biện pháp huy động sự đóng góp của nhân dân trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp. Tư tưởng và thói quen bao cấp vẫn còn khá nặng nề.

Trong chính sách xã hội hoá, chưa quy định rành mạch về sở hữu của các cơ sở ngoài công lập (bán công, dân lập); chưa phân định rõ sự khác biệt giữa các hoạt động có bản chất lợi nhuận và phi lợi nhuận trong các cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, giữa phúc lợi cho người dân và việc bao cấp cho các cơ sở công lập.

Thực tế đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, giải pháp để vừa bảo đảm định hướng phát triển, vừa khuyến khích, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao.

II. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHUNG

1. Thực hiện xã hội hoá nhằm hai mục tiêu lớn: thứ nhất là phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao; thứ hai là tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách, người nghèo được thụ hưởng thành quả giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao ở mức độ ngày càng cao.

2. Nhà nước tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh việc hoàn thiện chính sách; tăng nguồn lực đầu tư, đồng thời đổi mới mục tiêu, phương thức, cơ cấu và nguồn vốn đầu tư; tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các chương trình quốc gia phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao; hỗ trợ các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người; ưu đãi các đối tượng chính sách và trợ giúp người nghèo trên cơ sở đổi mới chế độ miễn, giảm phí theo hướng công khai, hợp lý và cấp trực tiếp tới đối tượng thụ hưởng.

3. Chuyển các cơ sở công lập đang hoạt động theo cơ chế sự nghiệp mang nặng tính hành chính bao cấp sang cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích không bao cấp tràn lan và không nhằm lợi nhuận (gọi tắt là cơ chế cung ứng dịch vụ): có đầy đủ quyền tự chủ về tổ chức và quản lý; thực hiện đúng mục tiêu và nhiệm vụ; hạch toán đầy đủ chi phí, cân đối thu chi...; thường xuyên nâng cao hiệu quả và chất lượng dịch vụ, sản phẩm; bảo đảm quyền lợi và cơ hội tiếp cận bình đẳng của người thụ hưởng.

Đổi mới chế độ thu phí đi đôi với việc thực hiện tốt chính sách ưu đãi các đối tượng chính sách và trợ giúp người nghèo. Mức phí quy định theo nguyên tắc đủ trang trải các chi phí cần thiết, có tích luỹ để đầu tư phát triển và xoá bỏ mọi khoản thu khác. Người thụ hưởng có quyền lựa chọn cơ sở cung ứng dịch vụ phù hợp với từng lĩnh vực.

4. Phát triển mạnh các cơ sở ngoài công lập với hai loại hình: dân lập và tư nhân. Quyền sở hữu của các cơ sở ngoài công lập được xác định theo Bộ luật Dân sự. Tiến tới không duy trì loại hình bán công.

Mỗi cơ sở ngoài công lập đều có thể hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận hoặc theo cơ chế lợi nhuận. Theo cơ chế phi lợi nhuận thì ngoài phần được dùng để bảo đảm lợi ích hợp lý của các nhà đầu tư, phần để tham gia thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, trợ giúp người nghèo, lợi nhuận chủ yếu được dùng để đầu tư phát triển. Theo cơ chế lợi nhuận thì lợi nhuận có thể được chia cho các cá nhân và phải chịu thuế. Nhà nước khuyến khích phát triển các cơ sở phi lợi nhuận.

Tiến hành chuyển một số cơ sở thuộc loại hình công lập sang loại hình ngoài công lập để tập thể hoặc cá nhân quản lý và hoàn trả vốn cho Nhà nước.

Khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước bằng nhiều hình thức phù hợp với quy hoạch phát triển, yêu cầu và đặc điểm của từng lĩnh vực. Các nhà đầu tư được bảo đảm lợi ích hợp pháp về vật chất và tinh thần.

5. Nhà nước tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện luật pháp; phát huy vai trò của các đoàn thể, tổ chức quần chúng, đặc biệt là các hội nghề nghiệp trong việc giám sát các hoạt động dịch vụ.

Nhà nước tạo môi trường phát triển, môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng theo luật pháp để thúc đẩy các cơ sở công lập và ngoài công lập phát triển cả về quy mô và chất lượng, xây dựng các cơ sở đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.

III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HOÁ TRONG CÁC LĨNH VỰC GIÁO DỤC, Y TẾ, VĂN HOÁ VÀ THỂ DỤC THỂ THAO

1. Giáo dục - đào tạo

a) Nhà nước tiếp tục tăng tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo. Bảo đảm kinh phí cho giáo dục phổ cập; tập trung đầu tư cho các nhiệm vụ trọng điểm, các chương trình mục tiêu quốc gia; đào tạo nhân lực cho các ngành, nghề mũi nhọn, trọng điểm, khó huy động nguồn lực từ xã hội; ưu tiên đầu tư cho những vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc ít người.

Nhà nước có cơ chế, chính sách đào tạo đủ về số lượng và bảo đảm chất lượng giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và các nhân viên khác, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; tiếp tục thực hiện các cơ chế chính sách khuyến khích, thu hút học sinh, sinh viên giỏi làm giáo viên, giảng viên, gắn đào tạo với sử dụng.

b) Huy động nguồn lực của các ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế - xã hội và cá nhân để phát triển giáo dục - đào tạo. Tăng cường quan hệ của nhà trường với gia đình và xã hội; huy động trí tuệ, nguồn lực của toàn ngành, toàn xã hội vào việc đổi mới nội dung, chương trình, thực hiện giáo dục toàn diện. Ban hành cơ chế chính sách cụ thể khuyến khích và quy định trách nhiệm các ngành, địa phương, các tổ chức kinh tế - xã hội và người sử dụng lao động tham gia xây dựng trường, hỗ trợ kinh phí cho người học, thu hút nhân lực đã được đào tạo và giám sát các hoạt động giáo dục.

c) Đổi mới cơ bản chế độ học phí: ngoài phần hỗ trợ của Nhà nước theo khả năng ngân sách, học phí cần bảo đảm trang trải chi phí cần thiết cho giảng dạy, học tập và có tích luỹ để đầu tư phát triển nhà trường; bước đầu đủ bù đắp chi phí thường xuyên. Xoá bỏ mọi khoản thu khác ngoài học phí.

Nhà nước có chính sách trợ cấp học phí hoặc học bổng cho học sinh giáo dục phổ cập, cho người học là đối tượng chính sách, những người ở vùng khó khăn, những người nghèo và những người học xuất sắc, không phân biệt học ở trường công lập hay ngoài công lập.

d) Khuyến khích thành lập các cơ sở giáo dục, đào tạo và dạy nghề ngoài công lập; chuyển một số cơ sở công lập sang loại hình ngoài công lập. Hạn chế mở thêm các cơ sở công lập ở những vùng kinh tế phát triển. Không duy trì các cơ sở bán công, các lớp bán công trong trường công.

Khuyến khích việc hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo có chất lượng cao của nước ngoài; khuyến khích mở các các cơ sở giáo dục đào tạo có chất lượng cao, có uy tín bằng 100% vốn đầu tư nước ngoài; khuyến khích các nhà khoa học, giáo dục có trình độ cao ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia giảng dạy tại Việt Nam.

đ) Củng cố, phát triển và nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục từ xa, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên của mọi người, ở mọi nơi, mọi trình độ và mọi lứa tuổi.

e) Chỉ tiêu định hướng đến năm 2010:

Chuyển phần lớn các cơ sở đào tạo và dạy nghề công lập và một phần các cơ sở giáo dục không đảm nhận nhiệm vụ giáo dục phổ cập sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ. Chuyển tất cả các cơ sở bán công sang loại hình dân lập hoặc tư thục.

Tỷ lệ học sinh nhà trẻ ngoài công lập chiếm 80%, mẫu giáo 70%, trung học phổ thông 40%, trung học chuyên nghiệp 30%, các cơ sở dạy nghề 60%, đại học, cao đẳng khoảng 40%.

2. Y tế

a) Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư cho y tế, trong đó bảo đảm ngân sách cho y tế công cộng, chăm sóc sức khoẻ cơ bản cho các đối tượng chính sách, người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi. Ưu tiên đầu tư cho hệ thống y tế dự phòng, y tế cơ sở, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, các bệnh viện nhi, khoa nhi, các chuyên khoa ít có khả năng thu hút đầu tư. Triển khai đề án đào tạo bác sĩ, dược sĩ đại học cho vùng núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. ưu tiên đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu dược và sản xuất thuốc trong nước.

b) Tăng cường các hoạt động chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Vận động mọi người tham gia chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Khuyến khích các cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài hoạt động từ thiện, cung cấp, hỗ trợ các thiết bị y tế và hỗ trợ khám chữa bệnh.

c) Đẩy nhanh tiến độ phát triển và nâng cao chất lượng bảo hiểm y tế; củng cố và mở rộng bảo hiểm y tế bắt buộc theo hướng đa dạng hoá các loại hình bảo hiểm y tế đáp ứng nhu cầu của nhân dân; phát triển mạnh bảo hiểm y tế cộng đồng dựa chủ yếu vào sự đóng góp của người tham gia bảo hiểm, có sự trợ giúp của Nhà nước và các nguồn tài trợ khác; khuyến khích các loại hình bảo hiểm y tế tự nguyện.

Mở rộng diện các cơ sở y tế đăng ký khám chữa bệnh theo bảo hiểm y tế. Từng bước thực hiện người đóng bảo hiểm y tế tự lựa chọn cơ sở khám chữa bệnh phù hợp. Nhà nước quy định chế độ thanh toán bảo hiểm y tế, đồng thời có chính sách ưu đãi đối với các đối tượng chính sách, trẻ em dưới 6 tuổi, trợ giúp người nghèo, đồng bào dân tộc ít người, vùng khó khăn.

d) Đổi mới chế độ viện phí trên cơ sở từng bước tính đúng, tính đủ các chi phí trực tiếp phục vụ bệnh nhân. Từng bước chuyển đổi việc cấp kinh phí hoạt động thường xuyên cho các cơ sở khám chữa bệnh sang cấp trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng dịch vụ y tế do Nhà nước cung cấp thông qua hình thức bảo hiểm y tế.

đ) Khuyến khích mở bệnh viện, phòng khám tư nhân, bác sĩ gia đình.

e) Ngăn chặn, xoá bỏ độc quyền trong xuất nhập khẩu, sản xuất và cung ứng thuốc chữa bệnh.

g) Chỉ tiêu định hướng đến năm 2010:

Thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.

Chuyển hầu hết các bệnh viện công lập sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ; hoàn thành việc chuyển các cơ sở y tế bán công sang dân lập hoặc tư nhân.

Các tỉnh, thành phố có điều kiện kinh tế phát triển đều có bệnh viện ngoài công lập.

3. Văn hoá

a) Tăng cường quản lý nhà nước các hoạt động văn hoá. Tăng đầu tư cho văn hoá, trong đó ưu tiên các vùng nghèo, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và bảo tồn, tôn tạo, phát huy các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể.

Duy trì và phát triển dưới hình thức công lập đóng vai trò chủ chốt trong sự nghiệp phát triển văn hoá đối với một số đoàn nghệ thuật truyền thống và tiêu biểu, các bảo tàng, ban quản lý di tích, thư viện quốc gia, thư viện tỉnh, thành phố, quận huyện, các đội thông tin, chiếu bóng lưu động, các trường đào tạo nghệ thuật đỉnh cao, đào tạo cán bộ văn hoá nghệ thuật đầu ngành, cán bộ văn hoá nghệ thuật dân tộc thiểu số....

b) Có chính sách thu hút mọi nguồn lực, thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân tham gia các hoạt động và sáng tạo văn hoá nhằm cung cấp, phổ biến và tạo ra nhiều sản phẩm, tác phẩm, công trình văn hoá có chất lượng, dân tộc và hiện đại để không ngừng nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Khuyến khích khôi phục và phát triển các loại hình văn hoá nghệ thuật truyền thống, các trò chơi dân gian của các dân tộc Việt Nam.

c) Có bước đi thích hợp trong việc xã hội hoá một số hoạt động văn hoá chuyên ngành cho từng loại hình, vùng, miền, đặc biệt là tập trung phát triển mạnh ở các vùng kinh tế phát triển bao gồm: hoạt động nghệ thuật, đào tạo văn hoá nghệ thuật, điện ảnh, xuất bản - in - phát hành, bảo tồn di sản văn hoá, mỹ thuật - nhiếp ảnh, thư viện, dịch vụ bảo hộ quyền tác giả. Khuyến khích phát triển các bảo tàng tư nhân.

d) Từng bước chuyển sang loại hình ngoài công lập các đoàn nghệ thuật, các trường đào tạo văn hóa - nghệ thuật trung cấp. Khuyến khích một số khoa hoặc ngành đào tạo không chuyên sâu, có tính phổ thông, quần chúng của các trường văn hoá nghệ thuật công lập tách ra để thành lập các cơ sở văn hoá nghệ thuật ngoài công lập.

Khuyến khích các đơn vị, tổ chức ngoài công lập phối hợp với các tổ chức công lập xây dựng đời sống văn hoá cơ sở theo định hướng của nhà nước; xây dựng các thiết chế văn hoá thông tin cơ sở ở xã, phường, thị trấn, thôn, làng, ấp, bản, cơ quan, đơn vị theo nguyên tắc tự tổ chức, tự quản lý và chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan có thẩm quyền.

đ) Chỉ tiêu định hướng đến năm 2010:

Chuyển toàn bộ số cơ sở công lập hiện có thuộc ngành văn hoá sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ.

4. Thể dục, thể thao

a) Nhà nước tăng đầu tư cho phát triển thể dục thể thao, trong đó tập trung cho các môn thể thao thành tích cao, xây dựng một số trung tâm thể thao quốc gia và vùng đạt trình độ, tiêu chuẩn tổ chức thi đấu quốc tế; phát hiện, bồi dưỡng các tài năng thể dục thể thao; hỗ trợ thể thao quần chúng.

b) Tuyên truyền, vận động và tổ chức để ngày càng có nhiều người tập luyện thể dục thể thao, góp phần nâng cao tầm vóc và thể chất con người Việt Nam, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân về hoạt động thể dục thể thao; phát hiện, bồi dưỡng các tài năng thể dục thể thao của đất nước.

c) Từng bước tạo lập và phát triển thị trường dịch vụ thể dục thể thao. Khuyến khích phát triển các cơ sở thể dục thể thao ngoài công lập, các tổ chức xã hội về thể dục thể thao. Khuyến khích chuyên nghiệp hoá thể thao thành tích cao trong những lĩnh vực thích hợp. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về thể dục thể thao.

d) Chỉ tiêu định hướng đến năm 2010:

Hoàn thành việc chuyển các cơ sở thể dục thể thao công lập sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ; chuyển một số cơ sở công lập có đủ điều kiện sang loại hình ngoài công lập. Các cơ sở thể dục thể thao ngoài công lập chiếm khoảng 80 - 85% tổng số cơ sở trong toàn quốc.

Xây dựng hiệp hội, liên đoàn cấp quốc gia với tất cả các môn thể thao; 80% số môn thể thao có hiệp hội hoặc liên đoàn cấp tỉnh. Việt Nam có đại diện quốc gia trong hầu hết các tổ chức thể thao của khu vực, châu lục và thế giới.

IV. CÁC GIẢI PHÁP VÀ CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH LỚN

1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nghiên cứu lý luận, nâng cao nhận thức về xã hội hoá

Tuyên truyền sâu rộng chủ trương, chính sách về xã hội hoá để các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, các đơn vị công lập, ngoài công lập và nhân dân có nhận thức đúng, đầy đủ, thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hoá trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao.

Tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, làm rõ các vấn đề về sở hữu, về tính chất hoạt động lợi nhuận và hoạt động phi lợi nhuận, về trách nhiệm xã hội của các tổ chức, về hình thức xã hội hoá trong mỗi lĩnh vực, để từ đó tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách.

Phát động các phong trào thi đua, xây dựng và nhân rộng các điển hình xã hội hoá trong từng lĩnh vực.

2. Tiếp tục đổi mới chính sách và cơ chế quản lý

a) Hoàn thiện các quy chế

Hoàn thiện các quy định về mô hình, quy chế hoạt động của các đơn vị ngoài công lập theo hướng: quy định rõ trách nhiệm, mục tiêu hoạt động, nội dung, chất lượng dịch vụ, sản phẩm, chế độ sở hữu và cơ chế hoạt động; quy định chế độ tài chính và trách nhiệm thực hiện chính sách và nghĩa vụ xã hội của các tổ chức hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận và áp dụng cơ chế doanh nghiệp đối với các cơ sở hoạt động theo cơ chế lợi nhuận.

Hoàn thiện hoặc ban hành mới quy chế hoạt động của các loại quỹ; thể chế hoá vai trò và chức năng của các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp tham gia vào quá trình xã hội hoá.

Đơn giản các thủ tục hành chính trong việc thành lập các cơ sở ngoài công lập trên cơ sở quy định chặt chẽ, hướng dẫn chi tiết điều kiện thành lập, điều kiện hành nghề và cơ chế hậu kiểm. Quy định điều kiện, thủ tục chuyển từ loại hình công lập sang các loại hình ngoài công lập.

Sửa đổi Nghị định 73 về cơ chế chính sách khuyến khích xã hội hoá; rà soát, sửa đổi các quy định, quy chế đã ban hành trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, đồng thời nghiên cứu mở rộng cho các lĩnh vực khoa học công nghệ, môi trường và các lĩnh vực xã hội khác.

b) Chuyển cơ chế hoạt động của các cơ sở công lập sang cơ chế cung ứng dịch vụ.

Sửa đổi Nghị định số 10/2002/NĐ-CP về cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập có thu chuyển sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ nhằm tạo điều kiện phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và tăng hiệu quả đầu tư của nhà nước cho phúc lợi xã hội. Hoạt động tài chính của cơ sở hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ phải được công khai và được kiểm toán. Chênh lệch thu chi phải chủ yếu được dùng để đầu tư phát triển cơ sở.

c) Đổi mới cơ chế sử dụng ngân sách nhà nước trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao

Nghiên cứu xây dựng và từng bước thực hiện chính sách đấu thầu cung cấp dịch vụ do nhà nước đặt hàng; khuyến khích các cơ sở thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia.

Nghiên cứu chuyển việc cấp phần kinh phí nhà nước hỗ trợ cho người hưởng thụ thông qua các cơ sở công lập sang cấp trực tiếp cho người hưởng thụ phù hợp với từng lĩnh vực; từng bước tạo điều kiện để người hưởng thụ lựa chọn cơ sở dịch vụ không phân biệt công lập hay ngoài công lập; từng bước chuyển việc thực hiện chính sách xã hội hiện đang giao cho các cơ sở công lập sang cho chính quyền địa phương các cấp.

Nhà nước hỗ trợ ban đầu có thời hạn cho các cơ sở công lập chuyển sang loại hình ngoài công lập; hỗ trợ khuyến khích các cơ sở ngoài công lập đăng ký hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận. Các cơ sở ngoài công lập được tham gia bình đẳng trong việc nhận thầu các dịch vụ do nhà nước đặt hàng. Thí điểm việc Nhà nước cho các cơ sở ngoài công lập (nhất là ở các vùng khó khăn, vùng kém phát triển) thuê dài hạn cơ sở hạ tầng.

d) Chính sách thuế

Có chính sách ưu đãi đối với các cơ sở ngoài công lập, đặc biệt là với các cơ sở hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận.

đ) Chính sách huy động vốn và tín dụng

Ban hành quy định về việc các cơ sở công lập hợp tác, liên kết với địa phương, doanh nghiệp, cá nhân trong việc xây dựng cơ sở vật chất, các cơ sở ngoài công lập huy động vốn để đầu tư phát triển cơ sở vật chất và hoàn trả theo thoả thuận.

Ban hành chính sách bảo đảm lợi ích chính đáng, hợp pháp về vật chất và tinh thần, về quyền sở hữu và thừa kế đối với phần vốn góp và lợi tức của các cá nhân, tập thể thuộc các thành phần kinh tế, các tầng lớp xã hội tham gia xã hội hoá và chính sách ưu đãi tín dụng từ Quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước.

Tiếp tục phát triển các loại quỹ khám, chữa bệnh cho người nghèo, quỹ phát triển văn hoá, quỹ khuyến học, quỹ hỗ trợ học nghề v.v... trên nguyên tắc: công khai, minh bạch và quản lý theo quy định của pháp luật.

e) Chính sách đất đai

Các địa phương cần điều chỉnh quy hoạch đất đai dành quỹ đất ưu tiên cho việc xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao công lập và ngoài công lập.

Thực hiện việc miễn tiền sử dụng đất, thuê đất đối với các cơ sở ngoài công lập hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận. Công khai, đơn giản hoá thủ tục giao đất, cho thuê đất. Xử lý kiên quyết, dứt điểm tình trạng lấn chiếm, sử dụng đất sai mục đích.

g) Chính sách nhân lực

Thực hiện chính sách bình đẳng giữa khu vực công lập và ngoài công lập về thi đua khen thưởng, về công nhận các danh hiệu nhà nước, về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, về tiếp nhận, thuyên chuyển cán bộ từ khu vực công lập sang ngoài công lập và ngược lại.Từng bước xoá bỏ khái niệm ''biên chế'' trong các cơ sở công lập, chuyển dần sang chế độ ''hợp đồng'' lao động dài hạn.

Ban hành chính sách đối với cán bộ hành nghề và cán bộ, viên chức nhà nước tham gia hành nghề trong các cơ sở ngoài công lập; quy định trách nhiệm của cơ sở ngoài công lập bảo đảm chất lượng và số lượng cán bộ cơ hữu, cán bộ kiêm nhiệm phù hợp với quy mô và ngành nghề, bảo đảm chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chế độ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, viên chức.

Ban hành chính sách đào tạo lại, trẻ hoá đội ngũ trong giai đoạn chuyển đổi loại hình hoặc chuyển đổi cơ chế hoạt động của các cơ sở công lập, chính sách đào tạo và hỗ trợ của Nhà nước trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các cơ sở ngoài công lập, chính sách hỗ trợ các cơ sở ngoài công lập tự đào tạo, phát triển nhân lực, kể cả việc đào tạo ở nước ngoài và thu hút nhân tài, chuyên gia, nhà quản lý nước ngoài đến làm việc.

h) Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước

Nhà nước quản lý thống nhất đối với các cơ sở công lập và ngoài công lập; tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở đó cùng phát triển ổn định, lâu dài; bảo đảm lợi ích của từng cá nhân, tập thể và của toàn xã hội; phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm của từng cấp, của tập thể và cá nhân người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước các cấp; gắn phân cấp nhiệm vụ với phân cấp quản lý về tài chính, tổ chức nhân sự và bảo đảm các điều kiện vật chất khác.

Tách bạch quản lý nhà nước khỏi việc điều hành công việc thường xuyên của cơ sở. Một mặt trao cho cơ sở đầy đủ quyền tự chủ và trách nhiệm; mặt khác bảo đảm quyền sở hữu và vai trò của đại diện chủ sở hữu trong các cơ sở công lập và ngoài công lập.

Hoàn thiện việc phân cấp quản lý, tăng quyền chủ động và trách nhiệm của các địa phương. Các địa phuơng căn cứ vào cơ chế, chính sách chung, quyết định cơ chế, chính sách cụ thể cho địa phương, xây dựng quy hoạch phát triển xã hội hóa đối với từng lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao trên từng địa bàn. Cấp quận, huyện có quyền cấp phép thành lập các cơ sở do quận, huyện quản lý.

Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra. Quy định chế độ và trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm của các cấp, đồng thời, phát huy dân chủ ở cơ sở để giám sát công việc quản lý của các cấp.

Phát huy vai trò giám sát của các Hội nghề nghiệp về chất lượng hoạt động của các cơ sở, tư cách hành nghề của các cá nhân. Khen thưởng kịp thời các cá nhân, cơ quan, tổ chức làm tốt công tác xã hội hoá.

3. Xây dựng quy hoạch phát triển xã hội hoá

Xây dựng quy hoạch chuyển đổi các cơ sở công lập có điều kiện phù hợp với yêu cầu, mục tiêu xã hội hoá sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ hoặc sang loại hình ngoài công lập với các bước đi thích hợp; định rõ chỉ tiêu, các giải pháp, lộ trình chuyển đổi của từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương trong giai đoạn 2005 - 2010.

Phổ biến rộng rãi dự báo phát triển mạng lưới các cơ sở, nhu cầu huy động nguồn lực thực hiện quy hoạch để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế, huy động đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong các lĩnh vực thích hợp.

V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

 

1. Các Bộ, ngành

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Văn hoá - Thông tin, Uỷ ban Thể dục Thể thao căn cứ vào các định hướng nêu trên, hoàn chỉnh và phê duyệt đề án xã hội hoá của ngành làm cơ sở cho việc phát triển xã hội hoá với các bước đi thích hợp, trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2005 và giai đoạn 2006 - 2010; chỉ đạo các địa phương xây dựng và thực hiện quy hoạch và kế hoạch phát triển xã hội hoá.

Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng đề án học phí; Bộ Y tế xây dựng đề án viện phí trình Thủ tướng Chính phủ trong quý II năm 2005.

Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan:

+ Trình Chính phủ sửa đổi Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về cơ chế chính sách khuyến khích xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao và Nghị định số 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16 tháng 01 năm 2002 về chế độ tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ trong năm 2005.

+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề về sở hữu, tính chất lợi nhuận và phi lợi nhuận, trách nhiệm của các cơ sở và hình thức xã hội hoá trong từng lĩnh vực, kiến nghị các cơ chế, chính sách phù hợp trong năm 2005.

+ Nghiên cứu xây dựng chính sách đấu thầu cung cấp dịch vụ do Nhà nước đặt hàng. Nghiên cứu phương thức thực hiện việc chuyển phần kinh phí Nhà nước hỗ trợ cho người hưởng thụ thông qua các cơ sở công lập sang cấp trực tiếp cho người hưởng thụ.

Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng hướng dẫn lập quy hoạch, kế hoạch hoặc rà soát, điều chỉnh, bổ sung và giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại các địa phương, tới các xã, phường, thị trấn, thôn, bản nhằm bảo đảm đủ quỹ đất đáp ứng nhu cầu xây trường học, bệnh viện, các thiết chế văn hóa, thể dục thể thao…; phối hợp với Bộ Tài chính hướng dẫn về chế độ phí sử dụng đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất phù hợp với Luật Đất đai hiện hành, phù hợp với từng loại hình cơ sở dịch vụ và khi chuyển đổi loại hình.

Bộ Xây dựng chủ trì cùng với Bộ Tài chính xây dựng cơ chế thí điểm việc Nhà nước xây dựng cơ sở hạ tầng cho các đơn vị ngoài công lập thuê dài hạn.

Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu trình Thủ tướng ban hành các mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ chế tự chủ và trách nhiệm của các cơ sở hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ; chế độ chính sách xã hội phù hợp với các chủ trương xã hội hoá và hướng dẫn việc chuyển đổi cơ sở công lập sang loại hình dân lập hoặc tư thục.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu trình Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách đầu tư hoặc hỗ trợ của Nhà nước cho các cơ sở ngoài công lập trong các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục, thể dục thể thao, đặc biệt là các cơ sở hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận.

Bộ Bưu chính, Viễn thông phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng chính sách thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao.

Các Bộ: Giáo dục và Đào tạo, Lao động - Thương binh và Xã hội, Y tế, Văn hoá - Thông tin, Uỷ ban Thể dục Thể thao và các Bộ, ngành liên quan thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc thực thi pháp luật, quy định của nhà nước về nội dung, chất lượng hoạt động, về tài chính, kịp thời xử lý nghiêm các trường hợp sai phạm để ngăn chặn những hành vi tiêu cực, gian lận, làm trái quy định, cạnh tranh thiếu lành mạnh trong quá trình xã hội hoá. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tuyên truyền sâu rộng về mục đích, nội dung, phương thức, chính sách và các giải pháp phát triển xã hội hoá.

2. Các địa phương

Uỷ ban nhân dân các cấp chỉ đạo các cơ quan chức năng xây dựng quy hoạch, kế hoạch và tổ chức phát triển xã hội hoá phù hợp với chủ trương chính sách của Nhà nước, với thẩm quyền và điều kiện của địa phương.

Chỉ đạo các ngành chức năng, huy động các nguồn lực tại địa phương để triển khai thực hiện quy hoạch; thường xuyên giám sát việc thực thi pháp luật, các quy định của nhà nước, kịp thời chấn chỉnh những lệch lạc, tiêu cực, xử lý nghiêm các trường hợp sai phạm. Định kỳ tổng kết rút kinh nghiệm, kịp thời biểu dương những điển hình tốt. Kịp thời đề xuất với Chính phủ các cơ chế chính sách cần được điều chỉnh hoặc bổ sung, các giải pháp mới, các mô hình tốt cần được nhân rộng.

3. Các cơ sở công lập và ngoài công lập có trách nhiệm nghiêm chỉnh thực hiện các chủ trương, chính sách, quy định của nhà nước, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, sản phẩm, đề cao trách nhiệm, tuân thủ các mục tiêu hoạt động của cơ sở đã được quy định trong Điều lệ.

4. Đề nghị Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, các Hội xã hội - nghề nghiệp có liên quan, các cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền sâu rộng, vận động và tổ chức quần chúng cùng tham gia thực hiện công tác xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao.

5. Các Bộ: Giáo dục và Đào tạo, Lao động - Thương binh và Xã hội, Văn hóa - Thông tin, Y tế, Uỷ ban Thể dục Thể thao và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết này theo chức năng, thẩm quyền. Định kỳ sáu tháng và hàng năm có báo cáo trình Chính phủ về kết quả thực hiện.

______________________________

 

QUYẾT ĐỊNH

CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 100/2005/QĐ-TTG

Phê duyệt Chương trình phát triển thể dục thể thao

ở xã, phường, thị trấn đến năm 2010

__________

 

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Pháp lệnh Thể dục, Thể thao ngày 25 tháng 9 năm 2000;

Căn cứ Quyết định số 57/2002/QĐ-TTg ngày 26 tháng 4 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành thể dục thể thao đến năm 2010;

Theo đề nghị của Bộ trưởng, Chủ nhiệm ủy ban Thể dục Thể thao,

 

QUYẾT ĐỊNH :

 

Điều 1. Phê duyệt Chương trình phát triển thể dục thể thao ở xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) đến năm 2010 với nội dung chủ yếu sau đây :

I. MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG TRÌNH

 

1. Mục tiêu chung:

Mở rộng và nâng cao hiệu quả phong trào thể dục thể thao quần chúng tại các xã, phường, thị trấn trong cả nước; huy động sức mạnh của toàn xã hội chăm lo giáo dục thể chất cho nhân dân, làm cho mỗi người dân ở xã, phường, thị trấn được hưởng thụ và tham gia các hoạt động văn hóa thể thao nhằm tăng cường sức khỏe, góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cả về trí tuệ và thể chất, phục vụ lao động sản xuất, công tác, học tập; góp phần ổn định, giữ gìn an ninh chính trị và đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Phấn đấu đến năm 2010 xóa các "xã trắng" về thể dục thể thao và đưa việc tập luyện thể dục thể thao trở thành thói quen hàng ngày của đa số nhân dân.

2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2010:

a) Đạt tỷ lệ 23 - 25% dân số nước ta tham gia tập luyện thể dục thể thao thường xuyên.

b) Số cán bộ hướng dẫn viên, cộng tác viên thể dục thể thao ở cấp xã trong cả nước được bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ về thể dục thể thao đạt trên 90%.

c) Số lượng xã, phường, thị trấn xây dựng được các địa điểm tập luyện thể dục thể thao đạt trên 80%.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI TÁC ĐỘNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH

 

1. Đối tượng: mọi tầng lớp dân cư, bao gồm: thanh - thiếu niên, học sinh, người cao tuổi, người khuyết tật, nông dân, công nhân, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động cư trú tại xã, phường, thị trấn.

2. Phạm vi tác động: các đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn trong phạm vi cả nước.

III. CÁC NHIỆM VỤ CHÍNH VÀ TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN

 

1. Nhiệm vụ chính

a) Xây dựng phong trào thể dục thể thao ở cấp xã

- Tiếp tục phát động phong trào "Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" và cuộc vận động "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại" gắn với cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa". Mỗi người dân tự chọn cho mình ít nhất một môn thể thao hoặc một hình thức tập luyện thích hợp.

- Thiết lập và tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về thể dục thể thao và các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương trong việc triển khai vận động, tổ chức các hoạt động thể dục thể thao cho mọi đối tượng ở cơ sở xã, phường và thị trấn, nhằm mục đích thu hút đông đảo nhân dân tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên.

- Khai thác, bảo tồn và phát triển các môn thể thao dân tộc, các trò chơi dân gian ở mỗi địa phương; từng bước đưa các môn này vào nội dung hoạt động của các Lễ hội truyền thống, ngày Hội văn hóa thể thao, Đại hội thể dục thể thao ở xã, phường, thị trấn nhằm thúc đẩy phong trào thể dục thể thao, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần.

b) Xây dựng bộ máy, cơ chế hoạt động của tổ chức thể dục thể thao cấp xã.

- Xây dựng bộ máy tổ chức: căn cứ điều kiện kinh tế - xã hội và phong trào thể dục thể thao trên địa bàn, ủy ban nhân dân cấp xã thành lập các loại hình cơ sở thể dục thể thao như Trung tâm Văn hóa - Thể thao, Nhà Văn hóa - Thể thao hoặc Câu lạc bộ Thể dục thể thao để điều hành các hoạt động thể dục, thể thao trên địa bàn xã, phường, thị trấn.

- Phối hợp với các tổ chức, đoàn thể xã hội thành lập các Câu lạc bộ thể dục thể thao phù hợp với lứa tuổi, hoàn cảnh và nhu cầu tập luyện của các đối tượng cư trú trên địa bàn.

- Tuyên truyền, vận động các tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế trên địa bàn đầu tư cho thể dục thể thao, thành lập các cơ sở dịch vụ thể dục thể thao theo quy định tại Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 8 năm 1999 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.

c) Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hướng dẫn viên, cộng tác viên thể dục thể thao cấp xã.

- Xây dựng đội ngũ hướng dẫn viên, cộng tác viên thể dục thể thao đạt các tiêu chí sau:

+ Về số lượng hướng dẫn viên thể dục thể thao cho đơn vị cấp xã: đảm bảo mỗi cụm dân cư (thôn, bản) có tối thiểu 01 hướng dẫn viên, cộng tác viên thể dục thể thao;

+ Về chuyên môn nghiệp vụ: các hướng dẫn viên thể dục thể thao cấp xã phải được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ thể dục, thể thao tại các lớp đào tạo cấp tỉnh;

+ Nguyên tắc làm việc: hướng dẫn viên thể dục thể thao cấp xã làm việc theo chế độ kiêm nhiệm hoặc hợp đồng.

- Xây dựng và ban hành các quy định về:

+ Tiêu chuẩn hướng dẫn viên thể dục thể thao;

+ Chế độ, chính sách đối với hướng dẫn viên thể dục thể thao làm việc theo phương thức kiêm nhiệm hoặc hợp đồng;

+ Nội dung giáo trình đào tạo chuyên môn và nghiệp vụ thể dục, thể thao đối với các lớp bồi dưỡng, đào tạo các cấp.

d) Xây dựng hệ thống cơ sở vật chất, sân bãi tập luyện thể dục, thể thao ở cấp xã.

- Hệ thống tiêu chí, tiêu chuẩn đối với cơ sở vật chất, sân bãi:

+ Vùng đô thị cần đảm bảo có tối thiểu: 01 sân thể thao phổ thông, 01 đến 02 phòng tập đơn giản, 04 đến 06 sân tập từng môn thể dục thể thao, 01 bể bơi;

+ Vùng núi và hải đảo cần đảm bảo có tối thiểu: 01 sân tập thể thao và vui chơi giải trí, 01 phòng tập đơn giản;

+ Vùng duyên hải, miền Trung, đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long cần đảm bảo có tối thiểu: 01 sân thể thao phổ thông, 02 đến 04 sân tập từng môn thể dục, thể thao, 01 phòng tập đơn giản, 01 hồ bơi đơn giản.

- Phấn đấu đến năm 2010 đạt chỉ tiêu diện tích đất dành cho tập luyện thể dục, thể thao từ 2 - 3 m2 đất/1 đầu người.

- Kiến nghị cấp có thẩm quyền và các cơ quan liên quan thiết lập chế tài đảm bảo thực hiện các quy định của Nhà nước về việc dành quỹ đất trong quy hoạch đất đai ở đô thị và các vùng nông thôn.

- Vận động các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức kinh tế trên địa bàn chủ động xây dựng và duy trì các cơ sở tập luyện thể dục, thể thao theo cơ chế xã hội hóa.

2. Tiến độ thực hiện

Chương trình được thực hiện trong 2 giai đoạn:

a) Giai đoạn I: 2005 - 2006 (2 năm)

Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là hoàn tất toàn bộ công tác chuẩn bị điều kiện để thực hiện Chương trình và chỉ đạo thực hiện các mô hình xã, phường, thị trấn thí điểm.

b) Giai đoạn II: 2007 - 2010 (4 năm)

Trên cơ sở tổng kết, đánh giá kết quả của giai đoạn I, tổ chức nhân rộng các mô hình xã, phường điểm về thể dục thể thao ở cấp xã trong phạm vi cả nước.

IV. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN

 

1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp đối với công tác thể dục thể thao ở cấp xã.

2. Xây dựng các hình thức hoạt động thể dục, thể thao quần chúng ở cấp xã phù hợp với các đối tượng và điều kiên cụ thể tại các khu vực: thành phố - thị xã, miền núi, đồng bằng Bắc Bộ, ven biển miền Trung, miền Đông Nam Bộ, miền Tây Nam Bộ.

3. Xây dựng và chỉ đạo xây dựng các mô hình điểm trên cơ sở phân loại 7 nhóm cụ thể: trung du - miền núi Bắc Bộ, đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ, vùng duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ và miền Tây Nam Bộ.

4. Thực hiện cơ chế phối hợp liên ngành trong công tác triển khai thực hiện Chương trình.

5. Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển thể dục thể thao quần chúng và vận dụng chủ trương xã hội hoá đối với các hoạt động thể dục, thể thao ở cấp xã.

6. Triển khai thực hiện công tác thi đua, khen thưởng thường xuyên, định kỳ và công tác tuyên truyền cho hoạt động thể dục, thể thao cấp xã.

V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

 

1. Ủy ban Thể dục Thể thao

a) Chủ trì, phối hợp với ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo, hướng dẫn các Sở Thể dục Thể thao (Sở Văn hóa - Thông tin - Thể thao) xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện công tác thể dục, thể thao ở xã, phường, thị trấn trên cơ sở Quy hoạch phát triển ngành Thể dục thể thao đến năm 2010 và nội dung của Chương trình này phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của từng địa phương.

b) Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài nguyên và Mội trường, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính xây dựng các chính sách liên quan đến việc thực hiện các mục tiêu của Chương trình.

c) Chủ trì, phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội khác chỉ đạo tổ chức và triển khai các hoạt động thể dục, thể thao ở cấp xã, theo nội dung Chương trình đã được phê duyệt.

d) Phối hợp với Bộ Văn hóa - Thông tin:

- Xây dựng và hướng dẫn thực hiện Quy chế hoạt động của Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã, phường, thị trấn;

- Ban hành, hướng dẫn thực hiện Quy chế thành lập và hoạt động của các Câu lạc bộ Thể dục, thể thao, Làng, Bản Văn hoá - Thể thao; Gia đình Văn hoá - Thể thao.

đ) Trên cơ sở nội dung Chương trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; căn cứ các quy định hiện hành, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính thống nhất việc cân đối kinh phí từ ngân sách nhà nước để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của Chương trình.

2. Bộ Tài nguyên và Môi trường

Chủ trì, phối hợp với ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương rà soát, bổ sung và hoàn thiện các quy định về quy hoạch đất đai dành cho thể dục, thể thao và thiết lập các chế tài thực hiện các quy định này.

3. Bộ Tài chính

a) Bố trí kinh phí và hướng dẫn thực hiện Chương trình này theo quy định hiện hành.

b) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để trình cấp có thẩm quyền bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích phát triển các loại hình thể dục, thể thao (công lập, ngoài công lập) trên địa bàn cấp xã.

4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Phối hợp với ủy ban Thể dục Thể thao xây dựng và đầu tư thực hiện các đề án thuộc nội dung Chương trình đã được phê duyệt.

5. Bộ Nội vụ

Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng văn bản hướng dẫn việc thành lập và hoạt động của Trung tâm Văn hóa - Thể thao ở cấp xã.

6. Bộ Xây dựng

Phối hợp với ủy ban Thể dục Thể thao xây dựng quy trình, quy phạm và bộ mẫu thiết kế các công trình thể thao cơ bản ở cấp xã.

7. Bộ Văn hoá - Thông tin

Chủ trì, phối hợp với ủy ban Thể dục Thể thao xây dựng thiết chế làng, bản Văn hoá - Thể thao, Trung tâm Văn hoá - Thể thao ở cấp xã.

8. Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trên cơ sở nội dung Chương trình đã được phê duyệt, lập kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm của địa phương để triển khai thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ của Chương trình; bố trí cán bộ chuyên trách thể dục, thể thao phù hợp với từng loại hình xã, phường và phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.

9. Đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam phối hợp với ngành thể dục, thể thao vận động và tổ chức nhân dân trên các địa bàn xã, phường và thị trấn trực thuộc tham gia thực hiện và hoàn thành các mục tiêu được đề ra trong Chương trình này.

VI. KINH PHÍ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH

 

Chương trình phát triển thể dục thể thao ở xã, phường, thị trấn đến năm 2010 được thực hiện bằng các nguồn kinh phí sau:

1. Ngân sách nhà nước

- Ngân sách trung ương bảo đảm thực hiện một số nội dung của giai đoạn đầu tiên, bao gồm: biên soạn tài liệu hướng dẫn, đào tạo hướng dẫn viên, tuyên truyền - giáo dục, xây dựng trang WEB, xây dựng một số mô hình điểm và hỗ trợ một phần kinh phí tổ chức các giải thi đấu thể dục thể thao tầm quốc gia.

- Ngân sách địa phương bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ: xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm dụng cụ luyện tập và các hoạt động thể dục thể thao thường xuyên trên địa bàn xã, phường và thị trấn.

2. Các nguồn vốn khác, bao gồm:

- Tài trợ (ngoài nước và trong nước) và hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.

- Kinh phí nhân dân tự nguyện đóng góp.

- Kinh phí thu được qua các dịch vụ và các khoản thu hợp pháp khác.

 

Điều 2. Hiệu lực thi hành

 

Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

 

Điều 3. Trách nhiệm thi hành

 

Bộ trưởng, Chủ nhiệm ủy ban Thể dục Thể thao chịu trách nhiệm chỉ đạo, đôn đốc và kiểm tra thực hiện Chương trình này.

Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

_________________________________

 

QUY ĐỊNH KHUNG

Về phong đẳng cấp vận động viên quốc gia các môn thể thao

(Ban hành kèm theo Quyết định số: 15 /2005/QĐ/UBTDTT ngày 07tháng 1 năm 2005 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục Thể thao)

CHƯƠNG I- QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi đối tượng điều chỉnh

Quy chế này quy định hệ thống, tiêu chuẩn, thẩm quyền, trình tự, thủ tục phong đẳng cấp vận động viên các môn thể thao.

Đẳng cấp vận động viên thể thao là danh hiệu chuyên môn của ngành Thể dục thể thao. Việc phong đẳng cấp vận động viên theo quy định này nhằm tôn vinh và đánh giá trình độ thể thao của vận động viên; đảm bảo các quyền lợi và khuyến khích vận động viên tập luyện, thi đấu, không ngừng nâng cao thành tích thể thao, mang lại vinh quang cho Tổ quốc.

 

Điều 2. Hệ thống đẳng cấp vận động viên thể thao quốc gia

 

Kiện tướng quốc tế

Kiện tướng

Dự bị Kiện tướng (nếu có).

Cấp I.

Cấp II.

Cấp III.

Điều 3. Điều kiện phong đẳng cấp vận động viên quốc gia các môn thể thao

Vận động viên là công dân Việt Nam.

Tham gia thi đấu tại các giải thể thao quốc gia và quốc tế có đủ các điều kiện để công nhận thành tích theo quy định.

Đạt các tiêu chuẩn chuyên môn quy định tại Điều 5 của quy định này hoặc được các Liên đoàn thể thao quốc tế tương ứng công nhận.

Có tư cách đạo đức tốt, không vi phạm pháp luật và được cơ quan nhà nước đề nghị phong đẳng cấp.

Điều 4. Thẩm quyền phong cấp VĐV

Uỷ ban TDTT công nhận các danh hiệu cho vận động viên được Liên đoàn thể thao quốc tế tương ứng phong cấp.

Uỷ ban TDTT phong đẳng cấp Kiện tướng, dự bị kiện tướng và cấp I cho vận động viên các môn thể thao theo đề nghị của các Liên đoàn, Hiệp hội Thể thao quốc gia hoặc các bộ môn (trong trường hợp chưa có Liên đoàn, Hiệp hội)

Sở Thể dục Thể thao, Sở Văn hoá Thông tin và Thể dục Thể thao các Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương, các Trường Đại học, Cao đẳng Thể dục Thể thao phong đẳng cấp II và cấp III cho vận động viên theo tiêu chuẩn quy định của Uỷ ban Thể dục Thể thao.

 

CHƯƠNG II- QUY ĐỊNH CỤ THỂ

 

Điều 5. Tiêu chuẩn phong đẳng cấp Vận động viên các môn thể thao

1. Đạt thành tích và huy chương tại các Đại hội và các giải thể thao theo quy định tại mục 2 điều 3 quy chế này.

2. Đạt tiêu chuẩn kiểm tra (các Test) theo quy định của Uỷ ban Thể dục thể thao.

Điều 6. Quyền lợi và nghĩa vụ của Vận động viên được phong cấp

1. Được cấp giấy chứng nhận đẳng cấp được phong và hưởng các quyền lợi theo quy định hiện hành của Nhà nước và của ngành TDTT.

2. Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà nước và các quy định của Uỷ ban Thể dục thể thao. Thường xuyên rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, ý chí để xứng đáng với những danh hiệu được phong.

3. Vận động viên sau khi được phong đẳng cấp mà vi phạm pháp luật đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc có những hành vi gian lận trong thi đấu thể thao và sử dụng Doping, bị xử phạt vi phạm hành chính quy định tại thông tư số 289/ 2004/ ngày 24 tháng 12 năm 2004 của Bộ Trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục Thể thao, thì bị tước bỏ danh hiệu đẳng cấp đã được phong.

Điều 7. Trình tự và thủ tục phong cấp

Hằng năm, các liên đoàn, hiệp hội thể thao quốc gia (hoặc các bộ môn) có trách nhiệm tổ chức các giải thể thao quốc gia và quốc tế và tổ chức kiểm tra các Test cho vận động viên theo quy định của Uỷ ban Thể dục thể thao để xác định các vận động viên đủ điều kiện và tiêu chuẩn được phong đẳng cấp.

Các liên đoàn, hiệp hội thể thao quốc gia (hoặc các bộ môn) lập danh sách hồ sơ vận động viên được phong đẳng cấp, làm văn bản đề nghị gửi về Vụ Thể thao thành tích cao I, Vụ Thể thao thành tích cao II để thẩm định.

Vụ Thể thao thành tích cao I và Vụ Thể thao thành tích cao II tiếp nhận đề nghị và thẩm định hồ sơ của các liên đoàn, hiệp hội (hoặc các bộ môn), trình Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục Thể thao phê duyệt, quyết định phong đẳng cấp vận động viên các môn thể thao.

Việc phong đẳng cấp vận động viên quốc gia các môn thể thao được tiến hành 2 đợt trong 1 năm (đợt 1 từ ngày 01 đến 31/1; đợt 2 từ 15/5 đến 15/6)

Các Sở Thể dục Thể thao, Sở Văn hoá Thông tin và Thể dục Thể thao, cơ quan Thể dục thể thao các ngành có vận động viên được phong đẳng cấp phải tổ chức lễ tuyên dương và trao quyết định phong đẳng cấp cho các vận động viên thuộc đơn vị quản lý.

Hồ sơ đề nghị phong cấp bao gồm:

a) Đề nghị của Liên đoàn/Hiệp hội thể thao quốc gia hoặc của Bộ môn (đối với những môn thể thao chưa thành lập Liên đoàn/ Hiệp hội). Đối với các môn thể thao tập thể thì kèm theo biên bản bầu chọn của tập thể đội thể thao và xác nhận của cơ quan quản lý vận động viên.

b) Văn bản kết quả thi đấu chính thức của các giải thi đấu quốc gia và quốc tế trong năm (có đóng dấu của cơ quan Nhà nước hoặc Ban tổ chức).

c) Văn bản phong cấp của Liên đoàn thể thao quốc tế đối với các vận động viên đạt đẳng cấp quốc tế.

d) Văn bản xác nhận tư cách đạo đức vận động viên được phong cấp của Giám đốc Sở Thể dục Thể thao, Sở Văn hoá Thông tin và Thể dục Thể thao hoặc Thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý vận động viên.

đ) Tờ trình của Vụ Thể thao thành tích cao I, Vụ Thể thao thành tích cao II sau khi đã tiến hành thẩm định.

e) Dự thảo Quyết định phong cấp vận động viên.

 

CHƯƠNG III: TỔ CHỨC THỰC HIỆN

 

 

Điều 8. Trách nhiệm thi hành

 

1. Căn cứ vào Quy định này, Vụ trưởng Vụ Thể thao thành tích cao I, Vụ Thể thao thành tích cao II có trách nhiệm xây dựng tiêu chuẩn cụ thể phong đẳng cấp vận động viên của từng môn thể thao, trình Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục Thể thao phê duyệt.

2. Vụ trưởng, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Uỷ ban TDTT, Giám đốc Sở Thể dục Thể thao , Sở Văn hoá Thông tin - Thể dục thể thao các Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương, các liên đoàn, hiệp hội thể thao quốc gia có trách nhiệm thực hiện các điều khoản trong Quy định này.

Trong quá trình thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc, đề nghị phản ánh về Uỷ ban Thể dục Thể thao để nghiên cứu giải quyết.

___________________________

 

 

THÔNG TƯ LIÊN TỊCH

của Uỷ ban TDTT và Bộ Nội vụ số 88/2005/TTLT-UBTDTT-BNV ngày 30/3/2005 Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan huyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về thể dục thể thao ở địa phương

 

Căn cứ Nghị định số 22/2003/NĐ-CP ngày11 tháng 3 năm 2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Thể dục thể thao;

 

 

Căn cứ Nghị định số 45/2003/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ;

 

 

Căn cứ Nghị định số 171/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Nghị định số 172/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

 

 

Liên bộ Uỷ ban Thể dục thể thao và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về Thể dục thể thao ở địa phương như sau:

 

I. CƠ QUAN CHUYÊN MÔN GIÚP UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỂ DỤC THỂ THAO

1. Vị trí và chức năng:

1.1.Sở Thể dục thể thao hoặc Sở Văn hoá - Thông tin và Thể dục thể thao là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh về thể dục thể thao và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và theo quy định của pháp luật;

1.2.Sở Thể dục thể thao chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Uỷ ban Thể dục thể thao;

1.3.Sở Văn hoá - Thông tin và Thể dục Thể thao chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ về văn hoá- thông tin của Bộ Văn hoá-Thông tin và về thể dục thể thao của Uỷ ban Thể dục thể thao.

2. Nhiệm vụ và quyền hạn:

 

2.1. Trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành các quyết định, chỉ thị về quản lý lĩnh vực Thể dục thể thao thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân tỉnh;

2.2. Trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm, các chương trình, dự án thuộc lĩnh vực quản lý của Sở phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội của địa phương, quy hoạch phát triển ngành của Uỷ ban Thể dục thể thao;

2.3. Trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc phân công, phân cấp hoặc uỷ quyền quản lý về lĩnh vực thể dục thể thao đối với Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thành phố, thị xã thuộc tỉnh( sau đây gọi chung là cấp huyện) và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định của pháp luật;

2.4.Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển thể dục thể thao đã được phê duyệt; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về lĩnh vực thể dục thể thao;

2.5. Về thể dục, thể thao quần chúng:

2.5.1. Hướng dẫn xây dựng quy chế tổ chức và hoạt động của các thiết chế thể dục thể thao trên địa bàn tỉnh theo quy chế mẫu của Uỷ ban Thể dục thể thao;

2.5.2. Tổ chức, chỉ đạo việc xây dựng đội ngũ cán bộ, hướng dẫn viên thể dục, thể thao quần chúng;

2.5.3. Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn các phương pháp luyện tập thể dục, thể thao cho mọi người;

2.5.4. Chủ trì, phối hợp với các ngành và đoàn thể trong tỉnh xây dựng chương trình phối hợp, tổ chức hoạt động thể dục, thể thao; hướng dẫn, kiểm tra và công nhận tiêu chuẩn rèn luyện thân thể trong các đối tượng trên địa bàn;

2.5.5. Phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo của tỉnh trong việc thực hiện các nhiệm vụ về thể dục, thể thao trường học:

2.5.5.1. Hướng dẫn, kiểm tra thực hiện chương trình giáo dục thể chất trong trường học;

2.5.5.2. Kiểm tra, đánh giá, công nhận tiêu chuẩn rèn luyện thân thể của người học trong từng năm học;

2.5.5.3. Bồi dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên, giảng viên thể dục thể thao;

2.5.5.4. Tổ chức các hoạt động thi đấu thể thao trường học;

2.5.5.5. Xây dựng các trường, lớp năng khiếu thể dục thể thao trên địa bàn tỉnh sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt;

2.5.6. Xây dựng hệ thống giải thi đấu, kế hoạch thi đấu, phê duyệt điều lệ và chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức các cuộc thi đấu thể dục thể thao quần chúng cấp tỉnh;

2.5.7. Chịu trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động thể dục thể thao phục vụ các nhiệm vụ chính trị của tỉnh;

2.5.8. Tổ chức các giải thi đấu khu vực, toàn quốc về thể dục thể thao quần chúng khi được cấp có thẩm quyền giao;

2.6. Về thể thao thành tích cao:

2.6.1. Trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh kế hoạch tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện, thi đấu của vận động viên các đội tuyển thể thao của tỉnh và tổ chức thực hiện kế hoạch đã được phê duyệt;

2.6.2. Trình uỷ ban nhân dân cấp tỉnh kế hoạch tổ chức Đại hội Thể dục thể thao cấp tỉnh, các giải thi đấu quốc gia, quốc tế được cấp có thẩm quyền giao và tổ chức thực hiện khi được phê duyệt;

2.6.3. Thực hiện quyết định phong cấp cho vận động viên, huấn luyện viên, trọng tài thể thao thuộc thẩm quyền quản lý của Sở theo phân cấp của Uỷ ban Thể dục thể thao.

2.7. Trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về chương trình, kế hoạch cải cách hành chính, xã hội hoá hoạt động thể dục thể thao ở địa phương; chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt.

2.8. Phối hợp với Sở Văn hoá- Thông tin Trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành tiêu chuẩn, chức danh đối với Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn về thể dục thể thao thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

2.9. Thực hiện hợp tác quốc tế về Thể dục thể thao ở địa phương theo quy định của pháp luật và sự chỉ đạo Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

2.10. Nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng hệ thống thông tin, lưu trữ tư liệu về các lĩnh vực quản lý chuyên môn của Sở.

2.11. Tổng hợp thống kê báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao theo quy định với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Uỷ ban Thể dục thể thao.

2.12. Giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, các hội và tổ chức phi chính phủ về thể dục thể thao theo quy định của pháp luật.

2.13. Chủ trì, phối hợp với Sở Nội vụ, Sở Tài chính hướng dẫn, kiểm tra cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp thể dục thể thao theo quy định của pháp luật.

2.14. Tham gia thẩm định các dự án đầu tư về thể dục thể thao thuộc thẩm quyền quyết định của ủy ban nhân dân cấp tỉnh; chịu trách nhiệm thực hiện các dự án đầu tư về thể dục thể thao do ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao.

2.15.Tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm về việc giám định, đăng ký, cấp giấy phép, chứng chỉ về thể dục thể thao thuộc phạm vi quản lý của Sở theo quy định của pháp luật, theo sự phân công hoặc uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

2.16. Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về thể dục thể thao đối với các cơ quan chuyên môn về Thể dục thể thao thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

2.17. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, tiêu cực và xử lý các vi phạm về thể dục thể thao theo quy định của pháp luật.

2.18. Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, thực hiện chế độ tiền lương và các chính sách, chế độ ưu đãi, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc Sở theo quy định của pháp luật.

Thực hiện công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trong ngành thể dục thể thao tại địa phương.

2.19. Quản lý tài chính, tài sản được giao và thực hiện ngân sách được phân bổ theo quy định của pháp luật và phân công của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

2.20. Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao.

Đối với những tỉnh thành lập sở Văn hoá- Thông tin và Thể dục thể thao thì ngoài việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn về lĩnh vực thể dục thể thao quy định tại Thông tư này còn thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn về lĩnh vực văn hoá- thông tin theo Thông tư liên tịch Bộ Văn hoá- Thông tin và Bộ Nội vụ số 02/2005/TTLT/BVHTT-BNV ngày 21/01/2005 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về Văn hoá- thông tin ở địa phương.

3. Tổ chức và biên chế

 

3.1. Lãnh đạo Sở:

Sở Thể dục thể thao có Giám đốc và không quá 3 Phó Giám đốc.

Giám đốc Sở chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban Thể dục thể thao và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cấp tỉnh khi được yêu cầu.

Giám đốc Sở chịu trách nhiệm trước Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, trước pháp luật về toàn bộ các hoạt động của Sở và việc thực hiện nhiệm vụ được giao.

Các Phó Giám đốc chịu trách nhiệm trước Giám đốc và trước pháp luật về lĩnh vực công tác được phân công.

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc bổ nhiệm Giám đốc và Phó Giám đốc Sở theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ do Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục thể thao quy định và theo quy định của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ.

Việc miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật Giám đốc, Phó Giám đốc Sở thực hiện theo quy định của pháp luật.

3.2. Cơ cấu tổ chức của Sở gồm:

Văn phòng;

Thanh tra;

Các phòng chuyên môn, nghiệp vụ.

Các đơn vị sự nghiệp:

+ Trung tâm Thể dục thể thao;

+ Trường Thể dục thể thao;

- Các đơn vị sự nghiệp thể dục thể thao khác;

Việc thành lập các phòng chuyên môn, nghiệp vụ dựa trên nguyên tắc bảo đảm bao quát đầy đủ các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Sở; chức năng nhiệm vụ của từng phòng phải cụ thể, rõ ràng, không chồng chéo với chức năng, nhiệm vụ của phòng và tổ chức khác thuộc Sở; phù hợp với đặc điểm và khối lượng công việc thực tế ở địa phương, bảo đảm đơn giản về thủ tục hành chính và thuận lợi trong việc giải quyết các đề nghị của tổ chức và công dân.

Số phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở không quá 4 phòng đối với thành phố Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh; không quá 3 phòng đối với các tỉnh, thành phố còn lại.

Số lượng, tên gọi các phòng chuyên môn nghiệp vụ của Sở do Giám đốc Sở Thể dục thể thao phối hợp với Giám đốc Sở Nội vụ trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.

Giám đốc Sở Thể dục thể thao phối hợp với Giám đốc Sở Nội vụ trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc thành lập các tổ chức sự nghiệp thể dục thể thao trực thuộc Sở theo quy định của pháp luật, đáp ứng yêu cầu phục vụ quản lý ngành và phục vụ nhu cầu hưởng thụ về thể dục thể thao của nhân dân.

Giám đốc Sở Thể dục thể thao quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng, phòng chuyên môn nghiệp vụ, các tổ chức sự nghiệp thuộc Sở và quy định trách nhiệm của người đứng đầu các tổ chức thuộc Sở theo quy định của pháp luật;

3.3. Biên chế:

Biên chế của Văn phòng, Thanh tra, các phòng chuyên môn nghiệp vụ là biên chế quản lý nhà nước. Biên chế của Sở Thể dục thể thao do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định theo quy định tại Nghị định số 71/2003/NĐ-CP ngày 19/6/2003 của Chính phủ về phân cấp quản lý biên chế hành chính, sự nghiệp nhà nước và Nghị định số 112/2004/ NĐ- CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ quy định cơ chế quản lý biên chế đối với đơn vị sự nghiệp của nhà nước.

Giám đốc Sở Thể dục thể thao bố trí, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức của Sở phải phù hợp với chức danh, tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức nhà nước theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.

II. PHÒNG VĂN HOÁ -THÔNG TIN- THỂ THAO

1. Chức năng:

& Phòng Văn hoá- Thông tin- Thể thao là cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp huyện) thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thể dục thể thao, quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực thể dục thể thao trên địa bàn huyện được tổ chức theo quy định tại Nghị định số 172/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 9 năm 2004 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Phòng Văn hoá- Thông tin- Thể thao chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ thể dục thể thao của Sở Thể dục thể thao hoặc Sở Văn hoá- Thông tin và Thể dục thể thao.

2. Nhiệm vụ và quyền hạn:

 

Uỷ ban nhân dân cấp huyện quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Văn hoá- Thông tin- Thể thao theo hướng dẫn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

3. Biên chế:

 

Căn cứ đặc điểm, tình hình phát triển thể dục thể thao ở địa phương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định biên chế để đáp ứng nhiệm vụ quản lý nhà nước về thể dục thể thao trong tổng biên chế hành chính được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao cho huyện.

4.Tổ chức sự nghiệp thể dục thể thao cấp huyện :

Căn cứ quy hoạch mạng lưới tổ chức sự nghiệp thể dục thể thao, đặc điểm tình hình của địa phương và hướng dẫn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và biên chế của các đơn vị sự nghiệp thể dục thể thao trực thuộc huyện.

III. NHIỆM VỤ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỂ DỤC THỂ THAO CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN

Nhiệm vụ quản lý nhà nước về Thể dục thể thao của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn( sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp xã) do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định theo đề nghị của Giám đốc Sở Thể dục thể thao và Giám đốc Sở Nội vụ.

Căn cứ tình hình thực tế, yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước về thể dục thể thao ở địa phương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định số lượng cán bộ không chuyên trách về thể dục thể thao ở xã theo quy định của Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn.

IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo và thay thế Thông tư liên tịch số 28/1998/TTLT-VHTT-TDTT-TCCP ngày 13/01/1998 của liên Bộ Văn hoá- Thông tin – Uỷ ban Thể dục Thể thao - Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ).

2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện Thông tư này.Trong quá trình thực hiện, nếu có vấn đề phát sinh hoặc khó khăn vướng mắc, các tỉnh cần phản ánh kịp thời về Uỷ ban Thể dục Thể thao và Bộ Nội vụ nghiên cứu giải quyết./.

______________________________

 

Ảnh trong bài
  • Bản tin Phổ biến, giáo dục pháp luật ngành thể dục thể thao số 5/2005