Bộ VHTTDL ban hành Thông tư quy định về phòng, chống doping trong hoạt động thể thao

Với 6 Chương, 25 Điều, Thông quy định về phòng, chống doping trong hoạt động thể thao do Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hoàng Tuấn Anh ký ban hành theo thông tư số 17/2015/TT-BVHTTDL sẽ chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1/3/2016.

Thông tư quy định về phòng, chống doping trong hoạt động thể thao đưa ra những quy định cụ thể về đối tượng áp dụng; nguyên tắc phòng, chống doping trong hoạt động thể thao; những hành vi vi phạm Bộ luật phòng, chống doping thế giới; những quy định về tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống doping trong hoạt động thể thao; những quy định trong công tác kiểm tra doping; việc xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại về doping và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong phòng, chống doping.

Theo Thông tư, đối với những quy định trong công tác kiểm tra doping thì Trung tâm Doipng và Y học thể thao có trách nhiệm lập kế hoạch và tổ chức thực hiện lấy mẫu xét nghiệm doping. Việc lấy mẫu, bảo quản mẫu và xét nghiệm doping được thực hiện theo quy trình kỹ thuật của Tổ chức phòng, chống doping thế giới. Trong thời gian 05 ngày làm việc, kể từ ngày có kết quả xét nghiệm doping, Trung tâm Doping và Y học thể thao phải thông báo bằng văn bản kết quả xét nghiệm đến Tổng cục TDTT và các cơ quan, tổ chức yêu cầu kiểm tra doping, vận động viên, đơn vị quản lý VĐV và liên đoàn thể thao quốc gia quản lý VĐV đó.

Thông tư cũng quy định rõ về việc miễn trừ do điều trị cho VĐV. Theo đó, VĐV có hồ sơ bệnh án đang cần phải sử dụng chất bị cấm hoặc phương pháp bị cấm được xin hưởng Miễn trừ do điều trị theo Tiêu chuẩn quốc tế về miễn trừ do điều trị. Việc sử dụng chất bị cấm hoặc phương pháp bị cấm phù hợp với các quy định của điều khoản Miễn trừ do điều trị sẽ không bị coi là hành vi vi phạm doping. Trong thời hạn tối đa 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ xin miễn trừ do điều trị, Trung tâm Doping và y học thể thao quyết định cho phép hoặc không cho phép miễn trừ do điều trị.

Về việc xử lý vi phạm doping tại liên đoàn, hiệp hội thì trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được kết luận đánh giá mức độ vi phạm doping, cơ quan có thẩm quyền, liên đoàn, hiệp hội thể thao quốc gia phải ban hành Quyết định xử lý vi phạm bao gồm: hình thức xử phạt, thời gian cấm tham gia hoạt động thể thao trên cơ sở đánh giá mức độ vi phạm và hình phạt bổ sung theo quy định của liên đoàn, hiệp hội.

Trong thời hạn 21 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định miễn trừ do điều trị, quyết định xử lý vi phạm, VĐV, cá nhân và tổ chức có liên quan có quyền khiếu nại chuyên môn đối với các quyết định trên.

KC

Ảnh trong bài
  • Bộ VHTTDL ban hành Thông tư quy định về phòng, chống doping trong hoạt động thể thao