Chiến lược TDTT Việt Nam xác định rõ: “Chăm sóc sức khoẻ, tăng cường thể chất của nhân dân được coi là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Chính phủ. Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi nhân dân ta phải có sức khoẻ dồi dào, thể chất cường tráng... Vận động TDTT là một biện pháp hiệu quả để tăng cường lực lượng sản xuất và lực lượng quốc phòng của nước nhà, đó chính là quan điểm của Đảng ta về phát triển sự nghiệp TDTT Việt Nam (Chỉ thị số 106-CT/TW của Ban chấp hành Trung ưởng Đảng Lao động Việt Nam về công tác TDTT)”
Chiến lược TDTT Việt Nam đến năm 2020 với những nội dung chủ yếu: TDTT cho mọi người (gồm: TDTT quần chúng, giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường, TDTT trong lực lượng vũ trang); Thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp; Uỷ ban Olympic Việt Nam và tổ chức xã hội nghề nghiệp về TDTT.
Chiến lược đã đề cập đến thực trạng của TDTT nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong đó có những thành tựu đã đạt được và cũng đã chỉ ra những tồn tại yếu kém và nguyên nhân khách quan, chủ quan. Đồng thời, Chiến lược cũng xác định được bối cảnh trong nước cũng như xu thế quốc tế về sự phát triển TDTT. Trên cơ sở đó, xây dựng chiến lược cho phù hợp với thực tế nhằm đạt được hiệu quả cao nhất cho sự nghiệp phát triển TDTT nước nhà.
Quan điểm phát triển TDTT Việt Nam đến năm 2020 đã được xác định rõ ràng và thể hiện trong Chiến lược. Theo đó, phát triển TDTT được xác định là yếu tố quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, tăng cường thể lực, tầm vóc, tăng tuổi thọ người Việt Nam và lành mạnh hoá lối sống của thanh thiếu niên. Phát triển TDTT là trách nhiệm củâ các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và toàn thể nhân dân. Ngành TDTT giữ vai trò nòng cốt trong thực hiện các chính sách phát triển TDTT của Đảng và Nhà nước.
Phát triển TDTT đồng bộ trong trường học, lực lượng vũ trang, ở xã, phường, thị trấn cùng với phát triển thể thao thành tích cao, thể thao chuyên nghiệp. Vấn đề xã hội hoá được thực hiện kết hợp việc kinh doanh TDTT với công tác cung ứng dịch vụ công theo quy định của Pháp luật. Đồng thời, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về TDTT.
Trên cơ sở quan điểm đó, Chiến lược đề ra mục tiêu đến năm 2020 xây dựng và phát triển nền TDTT nước nhà để nâng cao sức khoẻ nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước và tăng tuổi thọ của người Việt Nam theo tinh thần vì sự nghiệp dân cường, nước thịnh, hội nhập và phát triển.
Để đạt được mục tiêu đề ra, phải đạt được những chỉ tiêu cụ thể. Về TDTT quần chúng, số người tham gia luyện tập TDTT thường xuyên đến năm 2015 đạt tỷ lệ 28%, năm 2020 đạt 33% dân số (năm 2009 đạt gần 25%); Số gia đình luyện tập TDTT đến năm 2015 đạt 22% và năm 2020 đạt 25% số hộ gia đình trong toàn quốc (năm 2009 đạt 15,8%).
Về TDTT trường học, số trường phổ thông thực hiện đầy đủ chương trình giáo dục thể chất nội khoá đến năm 2015 đạt 100% (năm học 2007 - 2008 đạt 70%); số trường học phổ thông có CLB TDTT, có hệ thống cơ sở vật chất đủ phục vụ cho hoạt động TDTT, có đủ giáo viên và hướng dẫn viên TDTT, thực hiện tốt hoạt động thể thao ngoịa khoá đến năm 2015 đạt 45% và năm 2020 đạt từ 55% - 60 % tổng số trường; Số học sinh được đánh giá và phân loại thể lực theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể đến năm 2015 đạt 75% và đến năm 2020 đạt 85% - 90% tổng số học sinh phổ thông các cấp.
Đối với TDTT trong lực lượng vũ trang, số cán bộ chiến sỹ kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện thể lực theo từng quân, binh chủng đến năm 2015 đạt 82,5%, năm 2020 đạt 85,5%.
Chỉ tiêu cụ thể về TDTT đến năm 2020 gồm: Giữ vứng vị trí trong tóp 3 của thể thao khu vực Đông Nam Á; năm 2010 phấn đấu đạt vị trí 17 – 15 tại ASIAD 16; năm 2010 phấn đấu có khoảng 30 VĐV vượt qua các cuộc thi vòng loại và có Huy chương tại Olympic lần thứ 30; ASIAD 17 năm 2014 phất đấu đạt vị trí 15 – 13 tại ASIAD 17; năm 2016, phấn đấu có khoảng 40 VĐV vượt qua các cuộc thi vòng loại và có HCV tại Olympic lần thứ 31; năm 2019 phấn đấu đạt vị trí 14 – 12 tại ASIAD 18; năm 2020 phấn đấu có khoảng 45 VĐV vượt qua các cuộc thi vòng loại, có huy chương tại Olympic lần thứ 32.
Nguyễn Tâm