Đạo đức trong hoạt động TDTT 
Đạo đức nói chung đó là phẩm chất tốt đẹp mà con  người có được nhờ tu dưỡng theo những tiêu chuẩn, nguyên tắc được xã hội thừa  nhận, nó quy định cách hành xử, mối quan hệ của con người đối với nhau và đối  với xã hội. "Đạo đức cách mạng là bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì,  đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của  giai cấp, của nhân dân”(lời dạy của Bác Hồ tại Đại hội lần thứ III Đoàn TNLĐVN  ngày 24/3/1961). Đạo đức của cán bộ quản lý, huấn luyện viên, giáo viên, trọng  tài, VĐV thể thao và những người hành nghề kinh doanh hoạt động thể  thao phải là đạo đức cách mạng. Tiêu chuẩn đạo đức ấy được xây dựng dựa trên  những chuẩn mực về cách hành xử giữa người với người trong các hoạt động thể  thao theo nguyên tắc đoàn kết - trung thực - cao thượng.
Cán bộ quản lý, huấn luyện viên, giáo viên (gọi chung là cán bộ), trọng tài, VĐV thể thao trước hết là một công dân  phải nhận thức rõ và thực hiện tốt trách nhiệm công dân của mình đối với Tổ  quốc, Dân tộc và cộng đồng xã hội. Người cán bộ, trọng tài, VĐV thể thao phải  nghiêm chỉnh chấp hành mọi chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước  đã được thể chế hoá bằng luật và các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật, trong đó có rất  nhiều quy định điều chỉnh các hành vi về các đức tính cần, kiệm, liêm, chính,  chí công vô tư như vấn đề thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; phòng, chống tham  nhũng; chống tham ô, cửa quyền hách dịch, lười biếng, ỷ lại, cá nhân, ích kỷ…
Pháp luật về thể dục, thể thao có những quy định  về cách hành xử, mối quan hệ giữa những người tham gia hoạt động thể thao cần  được khuyến khích mà trong thực tiễn đó là những cử chỉ, hành vi mang tính chơi  đẹp “FAIPLAY” giúp đỡ lẫn nhau một cách vô tư, thực chất; đó là những hành vi  đạo đức thể hiện lòng yêu nghề say mê học tập để nâng cao trình độ; tinh thần  tận tuỵ sẵn sàng vượt qua khó khăn vì VĐV; không bị bất kỳ lợi ích vật chất hoặc  tinh thần nào chi phối làm ảnh hưởng đến sự trung thực, tính độc lập nghề  nghiệp; thận trọng trong mọi quyết định để hạn chế tối đa sai sót trong huấn  luyện; giữ gìn thông tin bảo mật khi hành nghề của người huấn luyện viên thể  thao, những điều này đã được Uỷ ban TDTT  (nay là Bộ VH,TT&DL) quy định trong “Tiêu chuẩn cơ bản về  đạo đức nghề nghiệp của huấn luyện viên, trọng tài thể thao”.
Luật Thể dục, thể thao, Nghị định  112/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thể  dục, thể thao và các văn bản quy phạm pháp luật khác quy định nhiều nội dung về đạo đức và  giáo dục đạo đức cho cán bộ, trọng tài, VĐV thể thao như: 
Đối với VĐV thể thao thành tích cao  Điều 32 quy  định tại khoản 1 điểm e là: Chấp hành quy định của luật thi đấu thể thao và điều  lệ giải thể thao; khoản 3 là: Rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất, đạo đức; nâng cao ý  chí, lòng tự hào dân tộc.
Đối với HLV thể thao thành tích cao phải quản  lý, giáo dục VĐV (Điều 33 khoản 1 điểm d). Muốn quản lý, giáo dục VĐV được tốt người  HLV phải gương mẫu với đạo đức tốt, ngoài những tiêu chuẩn chuyên môn khác. Theo  quy định của luật, người HLV phải chấp hành quy định của luật thi đấu thể thao và  điều lệ giải thể thao (Điều 33 khoản 1 điểm e), mà trong điều lệ giải thường có  những quy định về vấn đề đạo đức như bảo đảm tính trung thực chẳng hạn.
Đối với trọng tài, Điều 34 khoản 4 quy định phải  điều chỉnh hành thi đấu theo quy định của luật thi đấu thể thao và theo quy định của  điều lệ giải; khoản 5 quy định phải trung thực, khách quan trong điều hành thi  đấu.
Đối với VĐV, HLV chuyên nghiệp, ngoài những tiêu  chuẩn đạo đức đối với VĐV, HLV thể thao thành tích cao còn phải có đạo đức trong  kinh doanh, hành nghề thể thao; không phải lúc nào cũng vì tiền bất chấp dư  luận; không được phép thờ ơ vô trách nhiệm với đơn vị, địa phương, nhất là với  nhiệm vụ Quốc gia. Những quy định về vấn đề này được thể hiện trong quy chế thể  thao chuyên nghiệp của từng môn thể thao; thể hiện trong hợp đồng lao động ký  với CLB chuyên nghiệp hoặc Liên đoàn thể thao quốc gia. 
Một điều hiển nhiên, người có đạo đức tốt là  người không có những hành vi vi phạm pháp luật do lỗi cố ý gây ra, nhưng có thể  có hành vi vi phạm pháp luật do thiếu hiểu biết gây ra (lỗi vô ý). Bởi vậy, cần  hiểu biết pháp luật và nâng cao trình độ chuyên môn để hạn chế thấp nhất và loại  bỏ được những vi phạm pháp luật đáng tiếc do lỗi vô ý gây ra.
Vũ Trọng Lợi